1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Hậu cung Chân Hoàn truyện - Tác giả: Lưu Liễm Tử - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 28/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 5: Vinh hoa phú quý
    Tất cả ý nghĩ này, cũng nhờ lời của Lý phu nhân thời Hán Vũ Đế sắp chết nói. Lúc ấy Lý phu nhân khuynh quốc khuynh thành được Vũ Đế đắc hạnh, trước khi chết Vũ Đế muốn gặp bà ấy lần cuối cùng, bà ấy lại lấy khăn lụa che mặt, có chết cũng không chịu gặp. Chỉ vì sắc đẹp mà được ưu ái, từng là ác mộng vĩnh viễn trong hậu cung của nữ tử, chỉ có khi mất đi, mới có thể tốt đẹp ở trong ký ức.

    Đến tay tôi, thay đổi suy nghĩ, nhưng cảm thấy cái gì khó giành được càng biết trân trọng. Vì thế ngày ngày vất vả suy tính trong lòng khéo léo từ chối, chỉ vì bốn chữ ‘lạt mềm buộc chặt’. Cái gọi là Lạt mềm buộc chặt, mục đích cuối cùng vẫn là chữ ‘buộc’, còn ‘lạt mềm’ chỉ là thủ đoạn mà thôi, cho nên khi ‘lạt mềm’ không nên ‘lạt mềm’ quá. Mà ‘buộc’ càng muốn buộc thỏa đáng, nếu không lại kiếm củi ba năm thiêu một giờ như ngày xưa. Giống như con nhện dệt lưới, dệt lưới càng to, càng thu được nhiều mới có thể đem thứ muốn thu hết vào trong túi.

    Cuối cùng cũng nửa tháng trôi qua, trừ đêm hôm giao thừa để chuẩn bị cho ngày thứ hai cúng tế, chàng không tới, kéo dài đến lúc Cúng tế kết thúc hoàn tất vào buổi trưa, chàng đến ngồi ở Ẩm Lục hiên nhà tôi rất sớm.

    Ánh mặt trời thật tốt, chiếu sáng vào tuyết đọng tạo vầng óng ánh trong suốt. Ánh sáng mặt trời và ánh tuyết chiếu lẫn nhau. Lúc đó tôi đang ngồi nghiêng người ở dưới cửa sổ để thêu cái túi hương, trên người toàn thân màu tím nhạt có hàng chuỗi hoa văn mờ trên y phục, bởi vì hoa văn mờ, nên nhìn xa trông giống như một màu tím nhạt, phối chiếc váy dài màu lót xanh nhạt thêu lấm tấm trăm đóa hoa nhỏ vàng nhạt đón xuân. Vì sợ nhan sắc quá trắng trong mộc mạc, vì thế phối thêm áo khoác bằng da lông bụng con Cáo hoa hồng tím khoác trên vai làm nền cho tôi, trên đầu chỉ cắm cây trâm khảm tua minh châu màu tím, thường ngày tùy ý cách ăn mặc, cũng có một chút trang trọng đãi khách, lịch sự tao nhã nhưng không nói toạc ra, ngay cả ý cười giữa lông mày cũng điềm tĩnh như ngọc châu sáng chói, chỉ thấy ôn hòa không thấy sắc sảo.

    Chàng đứng ở bên cạnh, cũng im lặng. Tôi biết chàng đã đến, chỉ làm như không biết, toàn tâm toàn ý kéo sợi tơ thêu túi hương kia. Chốc lát, chàng ho khan một tiếng, tôi ngầm ba phần vui mừng, đứng dậy nghênh đón nói : “ Hoàng Thượng tới rồi.” Lập tức oán trách : “ Đến đây cũng không nói một tiếng, có vẻ thần thiếp lại thất lễ.”

    Chàng mỉm cười : “ Mới đầu năm, chúng ta bắt bẻ cái lễ này làm gì? Trẫm thấy nàng tập trung thêu thùa, không nỡ làm ồn.”

    Tôi dặn cận tịch dâng trà lên, cười nói : “Chẳng qua thần thiếp rảnh rỗi không việc làm mới tìm thú vui để chơi. Hoàng thượng đi từ đâu tới đây ạ?”

    “Mới từ cung Hoàng hậu đến, gặp An tiểu viện ở đó, nói vài câu rồi tới đây luôn.” Lại nói : “ Nàng đang thêu gì đó?”

    Tôi nhẹ nhàng cười , lấy túi hương ra, nói : “ Vốn định thêu túi hương cho Hoàng thượng. Đáng tiếc tay chân thần thiếp chậm chạp, chỉ thêu trên rồng, mây lành, còn chưa nghĩ ra nên thêu màu gì.”

    Chàng nói : “ Bất kể nàng thêu cái gì cũng được, chân thành của nàng mới là đáng quý nhất.”

    Tôi nghiêng đầu nói : “Vật trên người Hoàng thượng, một cây kim một sợi tơ nào có thể qua loa được, huống chi như lời Hoàng thượng nói, túi hương là tâm ý của thần thiếp, thần thiếp lại càng không muốn nửa phần cẩu thả.”

    Chàng nghe vậy cũng cười, tập trung suy nghĩ, ánh mắt rơi vào trên áo tôi, nén cười nói : “ Màu tím nhạt trên người nàng rất đẹp, thêu thành mây lành và kim long cũng xứng.”

    Tôi nói “Vâng.”, cười nói lanh lảnh nói : “ Tử khí đông lai, kim long bàn phi, quả nhiên là điềm lành vô cùng tốt.”

    Vì thế nói chuyện nhàn rỗi, túi thương đã thêu xong. Huyền lăng chậc chậc khen ngợi một hồi, cũng không nhận lấy, tự ý tháo cây trâm minh châu nhét vào túi hương, nói : “ Đây là cây minh châu ngày ngày nàng cài lên tóc mai, sau này ngày ngày trẫm sẽ đeo túi hương này trên người, một bước cũng không rời, có được không?”

    Tôi cúi đầu ‘xì’, mặt đỏ bừng, không để ý chàng nữa.

    Huyền lăng cẩn thận nhìn xung quanh Ẩm Lục Hiên, nói : “ Giây phúc trẫm ngồi ở nơi này của nàng, trong căn phòng chỉ có ba bốn cái chậu than cũng không như chính điện ấm áp, trẫm muốn hỏi nàng, sao không sang ở Oánh tâm điện ?”

    Tôi hơi cúi đầu, nói khẽ : “ Thần thiếp thích Ẩm Lục Hiên thanh tịnh.”

    Chàng “Ưm” một tiếng nói : “Đêm đó trẫm và nàng cùng chơi cờ, sau hiên trồng khu rừng trúc, không phải âm thanh tuyết đè làm đứt trúc, mà là âm thanh gió thổi qua lá trúc kêu vang, sao lại nói là thanh tịnh? Buổi tối thế này sao ngủ ngon được, bị phong hàn càng khó hồi phục.”

    Trong mắt nhỏ bé có một chút lệ quang, miễn cưỡng nói : “ Thần thiếp…. thần thiếp không thể giữ lại hoàng tự, thật sự không còn mặt mũi nào gặp Hoàng thượng. Oánh Tâm điện là nơi Hoàng thượng và thần thiếp đã từng cùng chung sống, bây giờ thần thiếp thất đức sao có thể sống một mình ở nơi đó. Thần thiếp tình nguyện sống ở Ẩm Lục Hiên nghèo nàn sơ xác này, ngày ngày vì Hoàng thượng khẩn cầu có con nối dòng.” Nói xong, bản thân trong lòng cũng xúc động. Nói những lời này đều không phải mười phần chân thành, nhưng ba chữ ‘con nối dòng’ khiến tôi nhớ tới đứa con chưa chào đời đã mất đi và chuỗi ngày tháng đau khổ sau đó.

    Sắc thái lời nói như vậy, tất nhiên chàng sẽ động tâm động tình, hai tay an ủi trên vai tôi, nói : “Huyên Huyên, nàng chuốc khổ như vậy, chẳng phải khiến trẫm càng thêm đau lòng sao?” Thần sắc của chàng có chút đau khổ ngỡ ngàng : “Bởi vì trẫm không ở đây mà nàng không muốn sống một mình nơi cung điện trẫm từng sống qua. Huyên Huyên,tấm lòng nàng đối với trẫm nhìn phía hậu cung không ai có thể hơn nàng ba phần.” Chàng vỗ về hai má ngấn nước của tôi, nhẹ giọng nói : “Trẫm đã về, vẫn cùng nàng sống ở Oánh tâm điện có được không? Chúng ta như trước đây.”

    Chàng tận lực đọc rõ hai chữ ‘trước đây’, tôi ngẩng mặt lên hàm nước mắt và gật đầu tươi cười, nhưng đáy lòng bi thương. Cho dù chàng vẫn như trước kia, sống ở cung điện như trước, mà trái tim tôi, lại không thể giống như trước nữa rồi.

    Đêm nay, tôi không muốn nói lời dịu dàng mời chàng ra ngoài nữa. Chàng tích tụ nhiệt tình rất lâu và mong đợi chờ bạo phát thật lâu, giống như người thiếu niên có tích nóng nảy và bị kích thích. Mà tôi chỉ chậm rãi thừa nhận, thừa nhận chàng như con sóng âu yếm là kích thích như ngọn lửa bừng bừng cháy.

    Tỉnh lại đã là đêm khuya. Đêm khuya thanh vắng.

    Màn trướng oánh tâm điện có màu đỏ, thuở xưa tơ sống vàng cuốn lông vũ là một loại rất quý giá và đẹp. Dưới cửa phía tây vẫn có hai nến đỏ được thắp sáng như cũ, sáng rực như vì sao. Giá cắm nến dùng đồng đỏ đặc biệt khắc Thanh loan đang bay lượn trên bầu trời, ánh nến sáng rất lâu, giọt nến rơi lệ tích đầy dưới đồng như san hô, màu đỏ trong rất nổi bật. Ngoài cửa sổ không một tiếng gió, giữa đất trời lặng im, duy chỉ nghe thấy có tuyết đang nhỏ giọt ròng ròng, nhỏ mà dễ vỡ.

    Trong điện ấm ấp có phần đổ mồ hôi. Tôi lẳng lặng nằm ở trên chiếc giường rộng lớn, chàng ngủ rất sâu, hai tay ôm chặt vai tôi, không thể nhúc nhích. Bởi nóng mà cánh tay chàng dán lên trước ngực trần trụ của tôi làm mồ hôi dính chưa kịp khô, làm cho người ta chán ghét.Dục vọng là của chàng, hoan hảo như dòng nước trên thân thể chảy qua, chỉ cảm thấy thân và tâm đều mệt mỏi. Cảm giác giống như chàng mới vừa tiến nhập vào thân thể tôi, phía dưới tương đối trần trụi, thân thể tôi phản ứng không quen mà khô khốc. Môi chàng khô nóng, hôn dồn dập, thân thể cũng gấp gáp, tùy tiện đi vào, khiến tôi im lặng chỉ biết nhận cơn đau đớn thô ráp.

    Trên mặt vẫn phải mỉm cười, trái tim lại bắt đầu do dự.

    Không biết trái tim và thân thể nữ tử có giống nhau hay không? Trái tim bất hòa, thân thể cũng thành một cái thùng trống rỗng, mờ mịt và cô quạnh chấp nhận tình cảm mãnh liệt của chàng, nhưng không cách nào vui vẻ nhận, như là không thèm đếm xỉa. Chỉ mỉm cười thừa nhận như vậy, không có hòa hợp, cũng không vui mừng.

    Trước mắt màn trướng màu hoa anh đào bình tĩnh buông xuống như cánh chim khổng lồ, đột nhiên nhớ tới, vào buổi tối lần đầu tiên, cả màu sắc cũng hiếm nhìn thấy.Gió đưa tình – tuyết tuôn rơi, thiên la địa võng, toàn bộ nơi đây đều bao phủ đầy tuyết trắng.

    Nhân sinh của tôi, chỉ có thể như thế này thôi.

    Mùng hai yến tiệc, tôi nghiêm nhiên ngồi phía bên phải Huyền Lăng, nâng cốc nói cười. Người người đều hiểu huyền lăng nghỉ đêm ở cung tôi, đến giờ ngọ bèn cung tôi đi gia yến. Sau đêm này, tôi không còn là Hoàn quý tần tinh thần sa sút như trước nữa. Chỗ ngồi phía bên phải vẫn là Hoàng hậu mặt mày đoan trang, Kính phi và Mộ Dung phi được phân chia ngồi ở hàng đầu hai bên, sau đó chín tần đứng đầu Lục Chiêu Nghi và dưới cô ta là Lý Tu dung. Vì hôm nay là gia yến, chỉ cần trong cung có vị phân, bất luận được sủng ái hay thất sủng, đều được tụ tập dưới một mái nhà. Phi tần ở đại điện rất nhiều, giọng mềm mại líu lo, ứng phó không nỏi. Tôi cười mỏng ngồi bên cạnh huyền lăng, nhìn đám mỹ nhân xinh đẹp duyên dáng ngồi xuống, chợt thấy thế sự khó có thể dự liệu, mùa xuân năm đó, tôi đã từng hưởng vinh hoa phú quý, cung đình chói mắt, mà hè đến lại mất đi đứa con của tôi, cũng khiến tôi bị thất sủng, thu dài vắng lặng, tất cả mọi người trong cung tưởng tôi thất sủng đến chết, thậm chí còn bị phi tần vị phân thấp hơn tôi nhục nhã tôi, mà đông tuyết còn chưa tan, tôi lại ngồi bên cạnh huyền lăng, cười vui như trước.

    Lâu không thấy Mộ Dung phi, dung sắc của cô ta cũng yên lăng không ít, nghe nói cô ta dâng biểu thỉnh tội với huyền lăng, lời nói khẩn thiết xúc động, huyền lăng xem xong thở dài không thôi, cũng không hạ chiếu thứ tội. Cô ta khó tránh có chút uất ức, nhưng cô ta ăn mặc đẹp đẽ quý giá với tư thế phe phẩy quạt ngồi ở vị trí trên, khí thế ngạo nghễ vô cùng và vẻ diễm lệ chưa từng mất đi, cũng khó trách, người thân của cô ta vẫn đang nắm giữ quyền thế trong triều, mà sau lưng gia tộc người nhà cô ta, còn có Nhữ Nam vương thanh thế hiểm hách. Huyền lăng dù chưa tha thứ cho cô ta, nhưng chưa trọng phạt, có thể thấy được cô ta sẽ nổi dậy, đúng là vẫn còn cơ hội.

    Tôi ngửa đầu uống cạn chén Bồ Đào Mỹ Tửu, rượu lạnh lẽo chảy qua yết hầu ấm áp khiến cảm xúc thanh tỉnh. Mất con là một chuyện, tôi đã hiểu rõ rằng, chỉ cần Nhữ Nam vương không ngã, Mộ Dung tộc không sụp đổ, bất luận Mộ Dung Thế Lan ở trong cung phạm nhiều lỗi thế nào, Huyền Lăng sẽ không, không thể cũng không dám giết cô ta cho hả giận.

    Tôi nhìn huyền lăng một cái, vương quyền thịnh bởi hoàng quyền, thân là nhất quốc chi quân, nói vậy chàng cũng phải ẩn nhẫn và căm giận.

    Tôi quay đầu lại rất nhanh, ánh mắt chuyền từ hoàng hậu đảo qua đám người. Kính phi luôn đồng tình với tôi, thấy tôi khởi sắc, cô ấy rất vui mừng, hai bên cũng có thể trợ giúp nhau, Mi Trang tỷ càng thành tâm chúc mừng tôi, Lăng dung một mặt vẫn khiêm tốn ôn hòa, trên mặt cũng khó xở tươi cười, lôi kéo tay tôi, hai mắt vô tội mà sáng ngời : “ Cuối cùng thời cực khổ của tỷ tỷ cũng đã qua, làm muội lo lắng quá.”

    Tôi chỉ cười thuận theo : “An muội muội nói quá lời rồi.” Cái khổ của tôi lại khiến cô ấy lo lắng thì đúng là nói quá rồi, trong thâm tâm tôi rất rõ ràng. Cô ấy cười có chút ngượng ngùng, dáng vẻ vẫn kính cẩn khiêm tốn như trước.

    Ngày đó ở sau Nghi Nguyên điện nghe thấy mấy lời nói cứ canh cánh trong lòng, ý tứ trong lời nói không phải tôi không hiểu, cho dù cô ấy là vì tự bảo vệ mình, vì cố sủng, tôi với cô ấy, trong thâm tâm đã không thân nữa rồi. Lòng người dễ thay đổi, lòng người phải mất thời gian dài mới thấy. Chỉ là nó đến trong trường hợp nào, thì tôi và cô ấy không thể dự liệu rồi.

    Khí tiếp xúc ánh mắt của Lục Chiêu nghi, cô ta mất tự nhiên, trốn tránh ánh mắt tôi rất nhanh. Tôi thản nhiên mỉm cười, Tần Phương nghi lại càng ngồi không yên, như đứng trong đống lửa, như ngồi trong đống than. Tôi mỉm cười chăm chú nhìn vẻ mặt mất tự nhiên đó, không hề có suy nghĩ đem chuyện hai người họ nhục nhã tôi cho huyền lăng biết.

    Cô ta không hiểu sao tôi lại được đắc sủng lần nữa và đối phó cô ta ra sao? Điều đó càng khiến cô ta bất an. Tôi cũng chẳng để ý, chỉ nhìn vẻ mặt sợ hãi đó, cười cực đẹp như một người thân cận. Mà cô ta chỉ lo cúi đầu, sợ không dám nhìn tôi lần nào nữa.

    Mấy ngày sau, tôi từ cung hoàng hậu đi thỉnh an trở về, tự Thượng Lâm uyển hồi Đường lê cung. Tuyết trên bầu trời trơn bóng, tôi cũng không cưỡi kiệu, chỉ ôm lấy lò sưởi tay, chậm rãi được cận tịch dìu tay trở về. Vào mùa đông băng tuyết mà Thượng Lâm uyển không hề hoang vu héo tàn, ngoài những cây hồng mai, mai vàng, bạch mai được tô điểm ở giữa, các cung nhân khéo tay dùng tơ lụa chuyên chế thành lá cây bông hoa, dính vào thân cây đang khô héo, giống như xuân sắc chưa từng biến mất.

    Tôi đi bộ được vài bước, nhàn nhã đi vào lầu gác bên đường quan sát cảnh tuyết giữa Thái dịch trì. Đó là khi ra khỏi cung hoàng hạu, Tôi tình cờ gặp Tần Phương Nghi và Tào Tiệp dư mỗi người trở về cung mà đi qua đó.

    Quả nhiên các nàng người trước người sau đều ngồi kiệu đi qua, thấy tôi ở đó, không thể không dừng bước mà vấn an tôi.

    Giữa lầu ba mặt có cửa sổ, một mặt là cửa chính, cũng có đỉnh để che đậy gió tuyết. Chỉ là căn nhà nhỏ bằng gỗ nhỏ hẹp, khi tôi và cận tịch đứng thẳng, lại thêm hai người Tào, Tần, liền có chút chật chội.

    Các cung nhân đều ở ngoài canh giữ, cận tịch cầm nệm ngan vũ êm mời tôi ngồi xuống, tôi lại lệnh hai người đó ngồi. Tôi cúi đầu nhìn bức tranh hoa điểu được khắc trên nắp lò sưởi, lò tưởi đang đốt quả tùng, trong không gian nhỏ hẹp này, tỏa mùi hương thanh nhàn.

    Tào tiệp dư thần sắc ung dung, dường như không có việc gì với tôi, tần phương nghi thần sắc không yên. Tôi cố ý không để ý tới cô ta, cười nói với tào tiệp dư : “ Thời gian trước bản cung bị bệnh, đã lâu không gặp hai vị tỷ tỷ, hôm nay đúng lúc chi bằng cùng nhau thưởng tuyết nói chuyện ?”

    Tào tiệp dư mỉm cười nói : “ Vốn định về chăm sóc công chúa, nhưng đã lâu không gặp nương nương, nên vấn an người.”

    Tần phương nghi bất đắc dĩ, đành phải nói : “ Nương nương có lệnh, tần thiếp không dám không theo.”

    Mỗi tôi khẽ nhếch lên, cười nói : “ Lời này nói ra như là bản cung đang cố ép tỷ vậy.” Cô ta cả kinh, vội vàng muốn nhận, tôi lại nói : “ Thật ra tỷ muội chúng ta có thể gặp mặt nhiều, nói chuyện một chút cũng tốt, tình nghĩa càng sâu nặng, hiểu lầm hiềm khích tự khắc sẽ không còn.”

    Vừa vào hầu môn sâu như biển, huống chi là cửa cung, từ xưa đến nay hoàng đế đều bạc tình, có lẽ thật sự mất đi mới có thể nhớ kĩ và quý trọng.
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 6: Triều chính
    Sau khi Tần Phương nghi tỉnh lại cũng đã bị điên, suốt ngày nói năng xằng bậy, sợ tới mức trốn ở giường không dám rời khỏi cửa. Trước đây Huyền Lăng vốn không thích cô ta, trong cung náo nhiệt không yên như vậy, lại giam cô ta ở trong cung không cho phép ra khỏi cửa, chỉ mời thái y khám và chữa bệnh cho cô ta.. Nhưng cô ta chỉ là phi tần thất sủng, lại bị điên như vậy, thái y cũng không chịu chữa trị cho cô ta, cùng lắm mỗi ngày đến xem một chút rồi đi.

    Tôi thường ở trong cung nhìn lầu gác Tần Phương nghi từ xa, hồi tưởng lại nước bọt nhục nhã đó, nước bọt giữa gió lạnh tại hai gò má có cảm giác vẫn chưa biến mất, ngày ấy ở trong lãnh cung cũng chứng kiến đủ loại bi thảm khắc sâu trong đầu tôi, cơn đau xót mất con và báo thù lẫn lộn nhau, ngưng tụ thành hồi ức trọn vẹn của người trên mình đầy vết thương.

    Nếu không phải Tần Phương nghi nhẫn tâm chà đạp tôi, nếu không phải cảnh ngộ Phương tần trong lãnh cung thê thảm, sao tôi có thể tỉnh táo nhanh như vậy, nhờ trình độ của người nào đó, đã tạo nên tôi của ngày hôm nay.

    Vì thế tôi dặn dò Cận Tịch đi lãnh cung truyền lời, dặn lão cung nơi đó đặc biệt chăm sóc Phương tần, đem cô ta đến nơi sạch sẽ một chút, tất cả quần áo thức ăn đều do cung tôi chi cho. Đối với Phương tần, một phần vì cảnh ngộ tương đồng giúp đỡ nhau, cũng vì vết xe đổ của cô ta mà tôi tỉnh ngộ. Nếu như ngày đó tôi một mực sa vào, liệu tôi có thành Phương tần thứ hai, thân ở lãnh cung, chờ chết mà thôi, cũng sẽ không có người tới thông cảm với tôi nửa phần. Cũng dặn người đối xử tử tế Tần Phương nghi, chỉ không hứa chữa khỏi bệnh điên cho cô ta mà thôi.

    Cận Tịch thắc mắc sao tôi lại quan tâm tới Phương tần trong lãnh cung. Tôi nhặt một trái hạnh ăn, sắc mặt trầm tĩnh như nước, nói : “ Ta nhớ cô ta thường kinh sợ, nếu như ngày đó ta sơ ý, ta sẽ mất đi tự do phóng khoáng, chỉ sợ sau này người cùng cô ta ở trong lãnh cung là ta rồi.”

    Cận Tịch im lặng, chỉ nói : “ Không biết Tần Phương nghi đắc tội thế nào với nương nương, mà bị dọa thành như vậy?”

    Tôi hơi cười lạnh : “ Cô ta sợ ta noi theo Lữ hậu biến cô ta thành người lợn, chưa gì đã dọa thành như vậy. Sớm biết có ngày hôm nay, cô ta chắc chắn hối hận ngày đó đối xử với ta như thế.”

    Cận Tịch mỉm cười, nói : “Tần Phương nghi bây giờ thành dạng này, chỉ sợ muốn hối hận cũng không thể rồi.”

    Đang cùng Cận Tịch nói chuyện, Bội Nhi vén màn đi vào : “ Lục Chiêu nghi ở bên ngoài đã đến, muốn cầu kiến nương nương.” Nói xong còn ngạc nhiên : “ Vị Lục Chiêu nghi cho tới giờ chưa từng đi lại với chúng ta, sao hôm nay lại tới, là vì biểu muội Tần Phương nghi của cô ta bị điên kia sao?”

    Tôi ôm lò sưởi bằng tay, nói : “ Trời đang có tuyết lớn, cô ta thân mình chưa lo xong, đâu phải lo lắng cho biểu muội của cô ta. Ngươi cũng biết, biểu muội cô ta bị điên đã nhiều ngày, cô ta liếc mắt nhìn cũng không dám nhìn.” Tôi thở dài : “ Cái gì gọi lòng người dễ thay đổi, chuyện liên quan đến cô ta, ngay cả biểu muội mà cô ta cũng có thể bỏ mặc…”

    Tôi xoay người trở lại phòng sưởi nằm ngủ, nói với Bội Nhi : “ Bản cung không rảnh nhìn cô ta, người đi nói với cô ta, chuyện của biểu muội không hẳn liên quan đến cô ta, nhưng bản cung cũng không muốn gặp lại cô ta, cô ta tự nhiên hiểu rõ bản thân nên làm thế nào.”

    Cận Tịch nhìn tôi mệnh Bội Nhi, nhìn cô ta đi ra ngoài, mới nói : “ Đối nhân xử thế của nương nương khác lúc trước rất nhiều.” Cận Tịch cúi đầu : “ Nếu là lúc trước, nương nương sẽ không vì chuyện này mà đối phó Lục Chiêu nghi như vậy.”

    Cây cổ thụ xanh lá trước điện như ngọc bích chấm nhỏ, chấm chút xanh. Tuyết rơi mùa đông, rậm rạp như cây thụ Bích diệp, thật là đáng xem. Tôi đặt chân lên cái lồng sưởi nạm vàng để sưởi ấm, dựa vào nệm êm chậm rãi nói : “ Có nguyên nhân tất có quả, từ trước là do ta quá dễ tính, lúc nào cũng nhân nhượng bọn họ, đến khi ta lụi bại, thì ai nấy đều ức hiếp ta. Hôm nay là giết một người để làm gương cho nhiều kẻ khác, coi như nhắc nhở cho người đó, bản cung cũng không phải người dễ bị ức hiếp.”

    Cận Tịch cẩn thận nói : “ Từ trước nay nương nương quá mức khoan dung nhân ái rồi. Nhưng hôm nay nương nương hình như hơi giống Hoa phi ngày xưa.”

    Thị nữ trong cung, dám nói chuyện với ta như vậy, cũng chỉ có mình Cận Tịch. Tôi cũng không giận, nói : “ Hoa phi tàn nhẫn sắc bén, thủ đoạn mạnh mẽ, cứng rắn khiến người người phòng tránh, đó không phải là chuyện tốt. Nhưng dùng để đối phó người có dị tâm trong hậu cung, cũng rất có tác dụng. Hoa phi có thể giải quyết hậu cung nhiều năm như vậy, cũng không phải không tệ. Tôi không thể bởi vì oán hận cô ta mà bỏ qua sở trường trên người cô ta. Bây giờ ta bắt chước lại, có nhiều chỗ không thể không tàn nhẫn, mà cách cô ta xử lý, ta cũng thấy đúng.” Tôi hơi thở dài : “ Từ trước người ta là dao thớt, ta là thịt cá. Giờ này ngày này, cũng nên thay đổi một chút.”

    Lúc này Cận Tịch mới khoan khoái cười một cái : “ Nương nương tính toán như vậy, nô tỳ cũng yên tâm rồi. Nhưng nương nương có thể mọi chuyện trôi chảy, không phải chịu khổ nữa.”

    Lục Chiêu nghi tay chân thật mau, ngày thứ hai dâng thư cho Đế hậu, bày tỏ bản thân muốn vào cung lâu năm, không có con cái, tính cách xa xỉ, dùng nhiều vàng ngọc, làm tiêu hao quốc khố, tự phế chín tần đứng đầu. Từ bỏ chủ vị một cung, xuống làm Thuận Nghi theo tứ phẩm năm nghi, dọn ở cùng Tần Phương nghi.

    Huyền Lăng chỉ sợ từ lâu đã không nhớ rõ Lục Chiêu nghi là ai, tất nhiên không có gì dị nghị. Mặc dù Hoàng hậu có chút nghi vấn, không biết sao Lục Chiêu nghi vẫn khăng khăng, cũng đành thuận theo cô ta thôi.

    Đương nhiên, tôi còn nhớ rõ cung nữ Yến Nhi bên cạnh cô ta vì tôi lo lắng không yên. Giữa trận nhục nhã vô cùng xấu hổ, lại có người duy nhất thương cảm cho tôi, dù rằng tôi cũng không cần thương cảm. Nếu dời nhà theo Lục Thuận nghi, cô cung nữ đó sẽ chẳng có ưu đãi gì cả, mà cô ấy tỏ vẻ đồng tình khiến tôi rất cảm động. Vì thế, tôi bảo Khương trung đưa cô ấy đến chỗ Hân quý tần. Hân quý tần có tỉnh cởi mở, đối xử cực kì tốt với cung nhân. Như vậy, Yến nhi coi như có chỗ ở tốt.

    Kể từ đó, dưới Hoàng hậu chỉ có Kính phi, Đoan phi và Mộ Dung phi giờ ở ẩn, chỉ có Kính phi vẫn chủ sự. Chín tần chỉ còn một người Lý Tu dung, sau đó là tôi và Hân quý tần. Địa vị tôi ở trong cung càng thêm vững chắc.

    Mà khi tôi ở hậu cung hô mưa gọi gió, thời điểm vinh hoa đắc chí, tiền triều dần dần không yên ổn rồi.

    Nguyên nhân gây ra cũng chỉ là chuyện nhỏ. Ba ngày trước Nhữ Nam vương Huyền Tế ở lâm triều không chỉ đi muộn mà mang vũ khí quân trang vào điện. Đây là nghi chế không hợp, triều điện không phải sa trường, cũng không phải đại chiến đắc thắng trở về, mang vũ khí mà còn đến trễ như vậy, chẳng qua chỉ diễu võ dương oai mà thôi. Huyền Lăng còn chưa nói gì, ngự sử Trương Lâm lập tức buộc tội, tấu Nhữ Nam vương bất kính.

    Nhữ Nam vương là võ tướng đứng đầu triều đình, từ trước đến nay không đem đạo lý thần Khổng Mạnh văn thần nho sinh để vào mắt, bởi vậy văn thần võ tướng trong triều như nước với lửa, từ lâu đã không hòa hợp. Mà chức ngự sử, trên có thể hạch tội quân vương, dưới có thể hạch tội quân thần, ăn nói thẳng thắn, được nhiều người tôn sùng.

    Nhữ Nam vương trời sinh tính lỗ mãng, chưa từng đem ngôn quan ngũ phẩm nho nhỏ để vào mắt, lúc ở triều chưa nói gì, mà khi bãi triều trở lại phủ thì cản Trương Lâm đánh mấy quyền, đánh bất tỉnh ngay tại chỗ.

    Việc này xảy ra, khiến văn nhân sĩ tử nhao nhao dâng thư lên, yêu cầu nghiêm trị Nhữ Nam vương, chấn chỉnh pháp luật và kỉ luật triều đình, mà Nhữ Nam vương cự tuyệt không chịu nhận sai, thậm chí còn cáo ốm không vào triều.

    Nhữ Nam vương to đầu khó chui, thanh thế hưng thịnh, Huyền Lăng lo lắng không thôi, việc nay khiến quan văn võ trong triều càng thù địch càng thêm sâu sắc, một khi xử lý không tốt, đó là đại sự nguy hiểm trong triều. Vì lý do này, Huyền Lăng ở Ngự Thư phòng suốt một ngày một đêm không ra ngoài.

    Chuyện Như Nam vương có liên quan đến Mộ Dung tộc, tôi có chút lo lắng, vì thế dặn Lưu chu chuẩn bị tổ yến bữa ăn khuya, đi đến Nghi Nguyên điện.

    Các đại thần đang tấu đã cáo lui, Huyền Lăng lẳng lặng một người tựa vào chiếc ghế bàn long, ngửa mặt nhắm mắt dưỡng thần. Tôi lặng lẽ đi vào, lấy tổ yến ở trong hộp thức ăn ra. Chàng nghe có tiếng động, thấy tôi, cười mệt mỏi, nói : “Huyên Huyên, nàng đã đến rồi.”

    Tôi dịu dàng mỉm cười : “ Không có làm ồn đến Hoàng thượng chứ!”

    Chàng lắc đầu, nói : “ Hai ngày nay nàng cũng nghe nói rồi à?”

    Tôi hơi gật đầu : “Vâng. Việc này đồn ầm cả lên, dù thần thiếp thân trong hậu cung cũng biết một chút. Nhưng triều chính phiền nhiễu, Hoàng thượng cũng cần phải chăm sóc sức khỏe mới là quan trọng.” Tôi đem tổ yến đặt tới trước mặt chàng, lại cười nói : “ Thần thiếp tự mình ninh hầm, Hoàng thượng cùng càng đại thần nghị sự rất lâu, hãy nếm thử xem trơn yết hầu không?”

    Chàng nghe vậy mỉm cười, tiếp tục múc một thìa nói : “ Rất ngọt.”

    Tôi nháy mắt, cũng múc một thìa ăn, nghi hoặc nói : “ Có ngọt lắm đâu. Hoàng thượng không thích ăn đồ ngọt quá, nên thần thiếp không cho nhiều đường vào.”

    Mi của chàng giãn ra, cánh tay khẽ duỗi cười nói : “ Ngọt không phải từ tổ yến, mà tự nàng thật tâm muốn ninh hầm tổ yến.” Chàng sờ vào tay tôi, nói : “ Tay có bị bỏng không?” Lòng tôi hơi động, chàng tiếp tục nói hết : “ Nhớ rõ lần đầu tiên nàng hầm tổ yến cho trẫm, không cẩn thận còn để bị bỏng.”

    Tự dưng trong lòng tôi xúc động chuyện trước kia, chàng còn nhớ rõ như vậy. Trong phút chốc, mắt thấy phòng đầy ánh sáng, tựa như mười bảy ánh trăng và mùi hương Long Tiên hương di chuyển như nước trong không khí, sáng rực mà yên tĩnh. Trong lòng nặng trĩu, vì thế nói : “ Thần thiếp đâu có hậu đậu như vậy, lần đó hơi nóng vội thôi.”

    Khi nói chuyện, chàng dốc ngược chén tổ yến uống hết, nói : “Nàng cũng biết Nhữ Nam vương ẩu đả ngôn quan. Vậy – nàng cảm thấy trẫm nên xử trí như thế nào, có nên theo phép công mà xử lý, trách phạt Nhữ Nam vương không?”

    Trong lòng có trăm ngàn ý niệm, suy nghĩ hồn loạn, chỉ cần tôi nói phạt theo lẽ công mà xử lý, trách phạt Nhữ Nam vương là được sao? Kẻ thù đầu tiên sẽ được báo. Nhưng phút chốc nghĩ lại, rất nhanh trấn tĩnh nói : “ Hoàng thượng thân nhất quốc chi quân, đương nhiên sẽ phạt theo lẽ công bằng, nhưng – không nên trách phạt Nhữ Nam vương.”

    Chàng nheo mắt lại, nhìn tôi, cảm thấy bất ngờ ‘a’ một tiếng, nói : “ Trẫm tưởng nàng sẽ đề nghị trẫm phạt Nhữ Nam vương? Nàng cứ nói ra nghe thử.”

    Tôi hàm chứa ý cười nhìn chàng : “Hoàng thượng không trách thần thiếp muốn nghị luận chính sự chứ?”

    Chàng nói : “Không sao, trẫm coi như trò chuyện với nàng, tuyệt không trách tội.”

    Tôi thở đều đặn, đứng ở cạnh chàng ngân nga nói : “Thần thiếp sẽ không vì tư lợi mà để Hoàng thượng trách phạt Nhữ Nam vương. Trước mắt việc quan trọng nhất là trấn an lòng người, hóa giải mâu thuẫn văn võ đại thần. Hai hổ đánh nhau, tất có một con bị thương, bất luận bên nào bị thương, thì cuối cùng vẫn là căn cơ của quốc gia bị tổn thương. Mà bây giờ xử phạt Nhữ Nam vương, chỉ e sẽ khiến võ tướng triều đình càng thêm bất mãn. Võ tướng – là người cầm binh quyền.”

    Tay phải Huyền Lăng để ở cổ cáo, từ từ cân nhắc. Tôi tiếp tục nói : “ Thật ra Hoàng thượng không cần dùng cách xử phạt Nhữ Nam vương để bình ổn chuyện này, nếu làm như vậy, chỉ tổ thuận tình anh mất tẩu. Văn thần sục sôi chẳng qua muốn một lời giao phí, Hoàng thượng cho họ một lời giao phó là xong, tốt nhất là bắt Nhữ Nam vương đến phủ tạ tội.”

    Huyền Lăng hơi giật mình, xua tay cười khổ nói : “ Nàng muốn Nhữ Nam vương đến phủ tạ lỗi? Hắn tâm cao khí ngạo như vậy, chẳng thà giết hắn cho xong.”

    Tôi hé miệng cười : “Đó cũng chưa hẳn.” Tôi tới phía sau chàng, nhẹ nhàng chỉnh ống tay áo, nói : “ Vương gia chinh chiến sa trường, vì nước giết địch, có thể coi là anh hùng. Vậy anh hùng, khó qua ải nào nhất?”

    Chàng vỗ tay cười to : “ Anh hùng cũng khó qua ải mỹ nhân! Đứa bé thông minh lanh lợi như nàng! Chiêu này mà nàng cũng nghĩ ra được.” Tôi cười nói : “Hoàng thượng cũng biết anh hùng khó qua ải mỹ nhân mà. Thần thiếp đâu hiểu chuyện quốc gia đại sự, biết đến cũng chỉ chút chuyện vặt vãnh nhỏ bé trong nhà mà thôi. Vương gia sợ vợ như hổ, nếu để Nhữ Nam vương phi đi khuyên, tất nhiên nắm chắc phần thắng rồi. Thần thiếp cũng từng gặp mặt Nam vương phi một lần, biết được người ấy không phải là người hung hãn đố kị không biết gì.”

    Chàng ngẫm cũng có lý, cười khoái : “ Vậy, ai đi khuyên Nhữ nam vương phi đây?” Tuy chàng hỏi, nhưng ánh mắt dừng trên người tôi.

    Tất nhiên chàng muốn tôi đi, chàng mở miệng nói ra và tôi mở miệng nói ra đều cùng một kết quả, thà như vậy, chi bằng tôi nói càng tốt hơn, thứ nhất cho chàng biết tôi có tâm ý, thứ hai cũng có thể phân ưu. Vì thế nói : “ Nếu Hoàng thượng không chê thần thiếp không có tài cán gì, thì thần thiếp xung phong nhận việc này.”

    Quả nhiên chàng tươi cười rạng rõ, đưa tay ôm tôi vào lòng, cười nhẹ : “ Giữa hậu cung, chỉ có Huyên Huyên nàng là người có khả năng phân ưu giải nạn với trẫm. Những đại thần cầm bổng lộc của trẫm, làm ầm ĩ cả ngày, mà chỉ có thể nghĩ ra cách phạt hay không, thật ra vô dụng cùng cực.”

    Tôi cười bảy phần, ba phần hờn dỗi, nói : “ Thần thiếp chỉ là nữ tử nhỏ nhoi giữa hậu cung, nào có chủ kiến gì, chẳng qua tâm ý của Hoàng thượng bị thần thiếp may mắn đoán bừa mà trúng thôi.Đám đại thần đó quen thuộc luân lý sách vở, thần thiếp quen thuộc với Hoàng thượng. Thiên ý của Hoàng thượng, thần thiếp vẫn có thể đoán được vài phần, các đại thần lại không đoán được. Thần thiếp thầm nghĩ, Hoàng thượng muốn triều đình an ổn, làm sao có thể vì văn thần trách võ tướng hoặc áp lực chế văn thần mà dung túng võ tướng.”

    Huyền Lăng than thở nói : “Huyên Huyên, quả nhiên nàng biết tâm ý của trẫm.” Bỗng nhiên chàng nhíu mày : “Nhưng Nhữ Nam vương sớm hay muộn cũng phải xử lý. Nếu không triều đình sẽ thành vây cánh của hắn. Giang sơn của trẫm không yên ổn rồi.”

    Quả nhiên, chàng có tâm tư này. Trong lòng bắt đầu sinh hi vọng, nói : “ Hoàng thượng có tâm này, là phúc của lê dân giang sơn. Nhưng bây giờ, không phải là lúc loại bỏ hắn.”

    Chàng ngón nhìn tôi, trong mắt có tia phó thác : “Huyên Huyên, trẫm quyết định chờ sau khi bình ổn chuyện này sẽ cho huynh trưởng nàng nhậm chúc binh bộ, nắm giữ binh quyền vũ lâm quân cận thân thị vệ của trẫm.” Tim tôi nhảy dồn dập, trao tặng ca ca binh quyền vũ lâm quân, muốn phân chia thế lực của Nhữ Nam vương. Huyền Lăng nghiêm mặt nói : “Chỉ có huynh trưởng nàng thôi thì chưa đủ, nhưng tướng có tài không thân cận Nhữ Nam vương, trẫm đều dụng tâm đề bạt. Nhưng, không thể sớm bứt dây động rừng, còn tính toán trong lòng, cho nên việc này vẫn có chỗ do dự.”

    Đúng vậy, nếu bứt dây động rừng, vậy thì không chỉ đơn giản như kiếm củi ba năm thiêu .một giờ. Tôi dụng tâm suy tính, trầm tư rất lâu, nói : “Nhữ Nam vương và vương phi đã sớm không còn phú quý gì có thể hưởng.Đáng thương cho tấm lòng cha mẹ thiên hạ, xem ra chỉ có thể thưởng cho con cái họ thôi.”

    Trong mắt Huyền Lăng hiện tia quang mang nóng bỏng, vui vẻ nói : “Không sai. Vương phi sinh cho hắn một nam một nữ, trưởng nữ là Khánh thành quận chúa, năm nay tròn 14 tuổi, trẫm có ý ngoại lệ phong nó làm công chúa, sau đó phong con trai làm thế tử, nối nghiệp cha.”

    Tôi gật đầu mỉm cười : “Hoàng thượng anh minh, chủ ý cũng rất thỏa đáng. Chỉ có điều, thần thiếp nghĩ không chỉ phong công chúa, mà phong hào cũng cần thay đổi, Lấy hai chữ Cung Định đi, cũng đẻ nhắc nhở phụ thân nó ‘cung kính an định’. Đương nhiên, Hoàng thượng không muốn động đến binh khí để hóa giải mối họa bức tường huynh đệ, vậy phải xem vương gia có thể lĩnh hội thiên ân hay không? Hơn nữa công chúa Cung Định được nuôi dưỡng trong cung, do thái hậu tự mình nuôi nấng – tương lai dường như có bất trắc, cũng tạm thời khống chế thế lực Nhữ Nam vương.”

    Chàng lưu tâm trầm tư, chốc lát vui mừng, nói : “ Không sai, cứ làm theo nàng nói, trẫm lập tức truyền chỉ.” Chàng nói xong, thái độ cũng thoải mái hơn, bèn bồng tôi lên đi đến phòng nghỉ, khẽ cười sau tai tôi : “ Nàng vừa nói anh hùng khó quá ải mỹ nhân…”

    Tôi cười nhẹ, đẩy chàng ra : “ Hoàng thượng còn trêu thần thiếp được, thần thiếp đâu dám gọi là mỹ nhân.” Ngoài miệng nói xong, trong lòng muốn tìm cách lấy cớ đùn đẩy trách nhiệm với chàng. Tối hôm qua vừa mới cùng chàng thân thiết, tốt nhất một hai ngày không nên gần gũi chàng.

    Đang định tiến vào phòng nghỉ, nghiêng đầu nhìn mặt Lý Trường hiện vẻ lo âu, đi theo sau nhắc nhở : “ Hoàng thượng, Hoàng thượng, đêm nay người đã chọn An tiểu viện thị tẩm rồi.” Hắn chần chờ : “ Bên phía tiểu viện đã phái người hỏi qua.”
    Huyền Lăng ‘a’ một tiếng, có chút giật mình, suy nghĩ một chút nói : “Vậy ngươi đi nói với nàng ta, kêu đêm nay không cần tới, mau đi nghỉ sớm đi.”

    Chàng cân nhắc một chút, tôi rời khỏi ngực chàng, nói : “ An muội muội mới được Hoàng thượng sủng ái không lâu, đang lúc nên yêu thương muội ấy nhiều, sao có thể để muội ấy phòng không chứ? Có lẽ thần thiếp nên cáo lui.” Nói xong, xoay người muốn đi.

    Huyền Lăng giữ chặt ống tay áo tôi, nói : “Nàng khoan đi đã.” Thần sắc nghiêm trang muốn dặn dò Lý Trường đi từ chối Lăng dung. Tôi dễ dàng để chàng nắm ống tay áo mềm giọng khẽ cười : “Không biết lúc này An muội muội đang mỏi mắt Hoàng thượng giá lâm thế nào đó, Hoàng thượng cửu ngũ chí tôn, nhất tôn cửu đỉnh, không nên thất tín với muội ấy.”

    Thần sắc chàng nhoáng lên một cái, hơi cười nói : “Nhưng trẫm muốn cùng nàng…”

    Tôi mỉm cười nói : “Chỉ cần Hoàng thượng nhớ đến thần thiếp là tốt rồi, làm sao thần thiếp có thể cùng An muội muội tranh giành giây phút ngắn ngủi với An muội muội cơ chứ!” Chàng hết cách khi tôi cứ khăng khăng đùn đẩy trách nhiệm cho người khác, cũng mỉm cười ưng thuận, nhìn bóng tôi rời đi.

    Ban đêm rất lạnh, sau đêm đông Tết Nguyên Tiêu, bầu trời vẫn đầy tuyết rơi như lông ngỗng, trong kiện liễu có lò sưởi, rất ấm áp. Quan nội giám nâng kiệu dẫm nát trên nền tuyết tạo tiếng kẽo kẹt kẽo kẹt, không nghe thấy tiếng người.

    Tôi vén rèm, đi qua chiếc xe Phượng Oanh Xuân Ân đang chở lăng dung đến nghi nguyên điện, người lái xe cầm chiếc đèn lồng lớn theo gió lay động trong tuyết sắc mờ mịt, càng xe ở trên mặt tuyết ầm ầm qua đi, ngọc lưu ly của đèn lồng va chậm gió tuyết, tạo tiếng êm tai, linh linh rung động.

    Tôi hạ màn xuống, an phận ngồi. Người nào thị tẩm cũng không cần xiết chặt, quan trọng hơn là, tôi có thể nắm bắt trái tim Huyền Lăng hay không?

    Hai ngày sau Hạ vương phi đến mới là quan trọng. Giờ phút này, nhất định không được để Nhữ Nam vương có cơ hội phản lại, nếu không chết không chỉ có tôi và Huyền Lăng, còn có thương sinh vạn chúng. Tôi nhất định phải trù tính thật kĩ.

    +++

    Ngày Nhữ Nam vương Hạ thị tiến cung tới thỉnh an Hoàng hậu. Thấy tôi mỉm cười ngồi dưới ghế Hoàng hậu, có chút giật mình, thản nhiên mỉm cười rất nhanh, nói : “Thân thể nương nương đã khỏe hẳn rồi hả? Thiếp chúc mừng nương nương.”

    Tôi nhã nhặn mỉm cười nói : “Tết Nguyên tiêu ngày ấy thấy nương nương theo mệnh phụ tiến cung chầu mừng, rất muốn cùng vương phi nói chuyện vài câu. Chỉ tiếc cóchuyện bên mình nên bỏ lỡ, thật là đáng tiếc.”

    Hạ vương phi cười nói : “ Nương nương thân thể ngàn vàng, sao thiếp dám làm bậy quấy nhiễu nương nương.”

    Tôi cười nhẹ : “Luận cương thường thì nói vây, nhưng theo luận gia lý bản cung phải gọi Vương phi một tiếng tam tẩu. Huống chi chúng ta là người một nhà, nên thân thiết mới phải.”

    Hạ vương phi ngoảnh mặt về Hoàng hậu nói : “ Hoàng hậu nương nương gần đây khí sắc thật tốt quá.”

    Hoàng hậu khẽ xoa má, cười mỉm : “ Vương phi thật biết nói chuyện, bản cung thấy sau khi vương phi sinh thế tử tinh thần rất tốt.”

    Hạ vương phi cảm thấy bất ngờ, nói : “ Thế tử? Sao Hoàng hậu lại trêu ghẹo thần thiếp chứ? Dư Bạc mới 6 tuổi, sao có thể là 6 tuổi được?”

    Hoàng hậu mặt mày hớn hở, nói : “ Đây là long ân của Hoàng thượng! Trong số các tử điệt, Hoàng thượng thích nhất là Bạc nhi, tuy Bạc nhi tuổi nhỏ, nhưng thông minh nhất, cho nên Hoàng thượng muốn nhanh chóng sắc phong nó là thế tử Nhữ Nam vương, để nuôi dạy cho tốt, sau này cũng có thể giống phụ vương của nó, an bang định quốc, hưng thịnh triều ta.” Nói xong, liếc mắt nhìn tôi một cái.

    Làm cha mẹ cưng chiều đứa bé bỏng nhất, Hạ vương phi cũng không ngoại lệ. Cô vừa mừng vừa sợ, thần tình đè nén không ngừng vui mừng, vội vàng đứng dậy tạ ơn. Hoàng hậu cười tiếp lời : “ Không chỉ thế, ý của Hoàng thượng là chuyện tốt thành đôi, còn phá lệ phong Khánh Thành quận chúa thành công chúa, danh hiệu cũng được đặt, lấy hai chữ Cung Định, tôn làm Cung Định công chúa, sau này do Thái hậu đích thân nuôi dưỡng.”

    Hạ vương phi vốn vui mừng, nhưng nghe thấy sẽ giao cho Thái hậu nuôi dưỡng, sắc mặt có chút chấn động, vội hỏi : “Đa tạ thánh ân Hoàng thượng, nhưng Vãn Y mới 12 tuổi, vẫn chưa hiểu chuyện, nếu như vì sắc phong công chúa mà giao cho Thái hậu nuôi dưỡng, chỉ sợ quấy nhiễu sự thanh tịnh của thái hậu, chi bằng xin Hoàng thượng thu hồi mệnh lệnh đã ban ra đi ạ.”

    Hạ vương phi từ chối như vậy vốn đã trong dự tính, Hoàng hậu liếc nhìn tôi, vì thế tôi nhẹ nhàng cười nói : “ Bên cạnh Hoàng thượng con cái không nhiều, trong cung chỉ có công chúa Thục Hòa và Ôn Nghi, tuổi nhỏ chưa trưởng thành. Khánh Thành công chúa có thể vào cung dưỡng dục là việc vui. Từ khi Đại chu khai triều tới nay, nghe nói chỉ có Thánh tổ dựng nước phong con gái của thân vương làm công chúa, nhưng đó cũng là trước khi thành hồn, để tương xứng với gia thế nhà chồng.Tuổi nhỏ đã được sắc phong Khánh Thành công chúa đây, là trường hợp đầu tiên đó.”

    Hạ vương phi có chút trầm ngâm, định nói tiếp, Hoàng hậu đã đứng dậy nói : “Bản cung đã mệt rồi, mời vương phi trở về đi. Buổi tối thánh chỉ Hoàng thượng sẽ đến vương phủ.”

    Hoàng hậu mỉm cười rời đi, tôi cũng cáo từ hồi cung. Cước bộ cố tình thong thả, thản nhiên đi tới. Chỗ Hoàng hậu đã hết cách, kiểu gì Hạ vương phi nhất định sẽ đến cầu xin tôi đi khuyên Huyền Lăng.

    Quả nhiên chưa ra cửa điện, Hạ vương phi chào đón nói : “Sắc trời còn sớm, thiếp muốn đến cung nương nương ngồi một chút, không biết nương nương có hoan nghênh không?”

    Tôi lại cười nói : “Vương phi khách khí quá, ta thích nhất là không mời mà tự đến như vương phi đây, như vậy sẽ không thấy xa lạ.”

    Đường vào Oánh tâm điện, Hạ vương phi nhìn khắp bốn phía, gật đầu cười nói : “Quả nhiên khí tượng đã đổi mới hoàn toàn, không giống như ngày xưa nữa rồi.”

    Tôi sai người dâng trà, cười mim nói : “ Đây là trà tuyết đỉnh hàm thúy, vừa từ xa cấp tốc về đây, vương phi nếm thử xem có vừa miệng không?”

    Hạ vương phi uống một ngụm trà, cũng không có chút thần sắc vui mừng, bộ dáng vẫn bình thường như cũ, chỉ nói : “ Không tồi. Nay trong cung nương nương nhận được thánh ý nhất, mọi thứ tất nhiên đều tốt nhất.”

    Tôi ngồi đối diện cô ấy, nhìn thần sắc cô ấy trong lòng cung hiểu rõ, cười nói : “Hôm nay vương phi nhận được tin mừng gấp bội.”

    Hạ vương phi nghe vậy thần sắc âm u, nói : “ Muốn mẹ con thiếp cốt nhục phân li, sao tốt được chứ? Hoàng mệnh không thể không tuân, thiếp đành phải cầu xin nương nương đi khuyên nhủ Hoàng thượng, thành toàn cho mẹ con thiếp.” Cô ấy thấy tôi trầm ngâm, lại nói : “ Nếu không được, cả nhà thiếp chỉ đành cầu xin Hoàng thượng thôi.”

    Tôi hiểu chuyện này không dễ dàng gì, mới mở miệng xin Hoàng hậu, lại muốn tôi đến lấy tình để cảm động, lấy lý lẽ nói rõ. Nếu không chuyện là do tôi truyền miệng ý chỉ của Hoàng thượng, có khuyên thế nào đi nữa cô ấy cũng không chịu nghe. Mà ngộ nhỡ Hạ vương phi không chịu, Nhữ Nam vương cũng nhất định không chịu, vậy kế sách dẹp yên sẽ không còn cách nào nữa rồi.

    Tôi cũng không trả lời cô ấy chuyện này, chỉ nói lại chuyện xưa : “Bản cung và vương phi gặp nhau tính cả hôm nay cũng có 3 lần, trong lòng sớm coi vương phi như cốt nhục chí thân. Nhớ ngày đó sau khi bản cung sảy thai bị thất sủng, nhận được ánh mắt xem thường của mọi người. Duy chỉ có vương phi không hề né tránh đến thăm bản cung, lại còn tặng bản cung nhân sâm bổ dưỡng sức khỏe, bản cung vẫn ghi nhớ trong lòng, hi vọng một ngày nào đó báo đáp ân tình vương phi đưa than sưởi ẩm trong ngày tuyết rơi.”

    Lời nói này rất động tình, cô ấy liên tục vuốt cằm nói : “ Nương nương là quý nhân, vậy mà còn nhớ rõ việc này.”

    Tôi nói : “Chuyện đó là tất nhiên, chịu ân một giọt nước, dùng sông lớn để trả. Bây giờ cũng lúc lúc bản cung nên báo đáp vương phi rồi.”

    Hạ vương phi mặt lộ vẻ vui mừng, nói : “ Vậy nương nương có động ý thay thiếp đi thỉnh cầu Hoàng thượng không?”

    Tôi lắc đầu : “Bản cung suy nghĩ cho vương phi, khuyên vương phi nên tuân theo thánh chỉ, để Thái hậu nuôi nấng công chúa.”

    Hạ vương phi nhíu mày,trong lời nói có chút bực, nói : “ Sao lại nói vậy?”

    Tôi bình tĩnh nói : “Vương phi đã là mẹ và là thê tử, tất nhiên mọi chuyện đều phải suy tính cho phu quân và con cái, lấy họ làm đầu. Vương phi, nói có phải không?”

    Cô gật đầu : “ Làm thê tử và làm mẫu thuân đích thật không dễ, huống chi là người Hoàng thất.”

    Tôi ngồi mặt đối mặt với cô ta, chăm chú nhìn vào cô ta nói : “ Mấy ngày trước đây vì chuyện Vương phi ẩu đả một quan văn, vương phi có nghe nói đến không? Đã dấy lên không ít phẫn nộ của dân chúng. Trong triều luôn xem trọng văn võ, lại đặc biệt coi trọng quan văn, ngay cả Hoàng thượng cũng có thể nói thẳng, Vương gia làm như vậy, thật sự không thỏa đáng.”

    Hạ vương phi thở dài, chỉ nói : “ Tính tình vương gia có chút nóng nảy, thiếp cũng đã khuyên nhiều lần rồi. Nhưng quan văn kia cũng hồ đồ, trước mặt mọi người mở miệng không suy nghĩ, không để ý mặt vương gia. Hoàng thượng và vương gia là thân huynh đệ mà.”

    Tôi cười khuyên nhủ : “ Cũng bởi vì thân huynh đệ, Hoàng thượng mới bảo vệ Vương gia. Nhưng sự phẫn nộ của dân chúng cũng cần phải yên ổn, dù sao cũng là vương gia động thủ trước, Hoàng thượng cũng không thể một tay che chở vương gia. Huống chi nếu che chở nhiều, trái lại vương gia bị điều tiếng, ngay cả thanh danh vương gia cũng không tốt.”

    Thấy cô ấy hơi động, tôi vội vàng nói cứng : “ Cho nên Hoàng thượng muốn bảo vệ thể diện cho vương gia, vừa muốn lấy công đạo cho văn nhân của thiên hạ, hi vọng vương gia có thể đến nhà Trương Lâm tạ lỗi, thứ nhất là tác phong của thân vương, thứ hai cũng bày tỏ vương gia không hề kinh thường văn nhân thiên hạ. Việc này cũng coi như bình ổn rồi.”

    Hạ vương phi liên tục thừa nhận nói : “ Nhưng, với tình tình của vương gia chỉ cho người khác cầu hắn, nào có hắn đi giải thích cho người ta.”

    Tôi nói : “ Vương phi thân là thê tử, đương nhiên sẽ tính toán cho vương gia. Những người văn nhân đều yêu thích viết lách, cả đời vương gia không thể vì chuyện đó là lưu tội danh thiên cổ. Huống hồ Liêm Pha đến tận cửa nhà nhận tội với Lạn Tương Như để lại danh tiếng tốt. Tôi thấy cô ấy hơi mềm lòng, lại nói : “ Bậc trượng phu luôn dễ dàng lỗ mãng, làm việc thì lo trước không lo sau, cho nên phận nữ nhân chúng ta, ở phía sau giúp đỡ, mới có thể để cho bọn họ yên tâm toan tính. Về việc này, Vương phi nên khuyên Vương gia một câu.”

    Hạ vương phi chậm rãi gật đầu, mấp máy miệng nói : “Nhưng vương gia không thể chịu thiệt như vậy, ông ấy luôn có tâm tính cao ngạo nhất.”

    Tôi tự mình gắp hai miếng điểm tâm cho Hạ vương phi, tha thiết nói : “Đúng vậy, Hoàng thượng cũng nghĩ như vậy, vương gia có công thần, lại là thân huynh đệ, sao chịu thiệt được.Cho nên mới muốn nhanh chóng phong Bạc nhi làm thế tử, phong Vãn Y làm Cung Định công chúa. Đây mới là thể diện của Vương gia.”

    “Nhưng phong Công chúa phải sống trong cung, thiếp phận làm mẹ…”

    Tôi vội vàng an ủi nói : “ Thục Hòa với Ôn Nghi còn trẻ con nên không thể hầu hạ Thái hậu, mà Thái hậu mang bệnh thích một đứa trẻ hiểu lòng người bên cạnh làm bạn. Hoàng hậu và bản cung cũng muốn ngày ngày làm bạn với thái hậu, nhưng cuối cùng không làm người vừa ý. Hoàng hậu cũng bận việc…. Quốc sự, không phải lúc nào cũng ở cạnh Thái hậu. Nếu công chúa có thể thay Hoàng thượng và Hoàng hậu phụng dưỡng Thái hậu, đúng là thuần hiếu vô cùng. Tương lai quận chúa được sắc phong công chúa lập gia đình, thân phận chẳng phải vinh quang rất tôn quý hay sao?” Tôi lại nói tiếp : “ Tuy Hoàng thượng muốn bảo vệ vương gia, nhưng suy cho cùng vương gia lại động thủ người ta trước, tên Trương Lâm kia cho đến giờ vẫn nằm bẹp giường kìa, Hoàng thượng cũng phải tức giận thôi. Với lại, vương gia tính tình ngay thẳng, khó tránh khỏi bị người oán giận, nếu có công chúa lúc nào cũng ở trước mặt khuyên Hoàng thượng vài câu, chẳng phải càng tốt sao? Bản cung sẽ nói với Hoàng thượng, để vương phi lúc nào cũng có thể vào cung đến thăm công chúa, khi nào muốn tiến cung thì tiến cung, vậy được không?”

    Một chút võ mồm như vậy, cuối cùng Hạ vương phi cũng đồng ý đi khuyên bảo Nhữ Nam vương, cũng bằng lòng cho con gái vào cung.

    Sau ngày thứ ba, Nhữ Nam vương tự mình đến nhà Trương Lâm tạ lỗi, tuy chỉ làm qua loa, suy cho cùng mọi chuyện cũng bình ổn không ít. Mà Khánh thành quận chúa, cũng đã được chọn ngày đẹp chuẩn bị sắc phong phụng dưỡng Thái hậu rồi.

    Ban đêm Huyền Lăng ở chỗ tôi, đến đây vui mừng kể : “ Trẫm vì nàng mà toát mồ hôi dầm dề, chỉ sợ nàng không thể, chút tâm tư này cũng uổng phí rồi. Không nghĩ lại thuận lợi như vậy, Huyên Huyên, việc nàng giúp đỡ trầm không hề nhỏ.”

    Tôi cười : “ Hoàng thượng không cần khen ngợi thần thiếp, chút tài mọn này có thể phân ưu với Hoàng thượng là việc nên làm mà. Huống chi, chuyện tiền triều thần thiếp không hiểu cũng không giúp được gì, chỉ có những việc vặt vãnh trong nhà thì còn có thể nói được vài tiếng mà thôi.”

    Tôi nhẹ nhàng cười, rót một bình trà Tuyết Đỉnh Hàm Thúy, hương trà lượn lờ, chàng uống một hớp, nói : “ Quả nhiên là trà ngon.” Chàng nắm tay tôi cười, nói : “ Trẫm biết nàng thích trà này, còn cố tình chọn loại trà tốt nhất cho nàng, có thích không?”

    Tôi mỉm cười ngồi trên đùi chàng, nhìn nước trà xanh như phỉ thúy, nhẹ nhàng cười nói : “ Thần thiếp đương nhiên thích. Hôm nay Nhữ Nam vương phi tới, thần thiếp cũng mời trà này, đáng tiếc vương phi không có bộ dáng thưởng thức, sợ là không hợp khẩu vị. Thần thiếp còn tưởng nhạt nhẽo, may là vương phi không để ý, nếu không thần thiếp khó chối tội này rồi.”

    Huyền Lăng vốn định cười, đến khi nghe xong, thần sắc âm trầm.

    Ở ngoài có cổng phẩm, trong cung có, Nhữ Nam vương phi cũng có, thậm chí còn tốt hơn, Huyền Lăng hẳn không hề biết.

    Chạm vào điều kiêng kị và chán ghét của chàng, vì thế càng âm trầm hơn.
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 7: Đào yểu
    Chuyện Nhữ Nam vương ẩu đả ngôn quan cuối cùng cũng yên bình trở lại, chuyện cừu oán mới gây tới cùng cũng đi xuống. Tuy nói xin lỗi qua loa, nhưng loại qua loa này, các quan văn vẫn bất bình tức giận. Tất nhiên Nhữ Nam vương không để ý tới, cũng không nhỏ nhen thế. Chuyện sắc thế tử và công chúa cùng tiến phong hết sức náo nhiệt xa hoa. Mà Khâm Nhậm thái phi xem qua, ở nơi riêng tư bèn bực tức nói : “Cho dù là sắc phong, nhưng cũng không nên náo nhiệt phô trương như vậy, vượt quá bổn phận rồi.” Mà Huyền Lăng không mở miệng nói gì, đối với tình thế yên ổn này cũng vì bất đắc dĩ, trong lòng rất căm phẫn.

    Tôi cái gì cũng không làm, cũng không nhiều lời, chỉ khoanh tay đứng nhìn. Huyền Lăng đã có tâm loại trừ Nhữ Nam vương Huyền Tế, hạt giống sớm nảy mầm sinh trưởng, hà tất tôi phải đi tốn nhiều năng lượng làm gì, đợi thời điểm thích hợp giội nước vào, rồi bón phân là ổn rồi.

    Nhữ Nam vương có việc vui vinh quang hiển hách như vậy, đương nhiên đường làm quan rộng mở, quên hết tất cả. Anh ta đã không phòng bị, Huyền Lăng lấy cớ Tử Áo Thành đêm đông phòng thủ binh sĩ thường xuyên lười biếng ngủ gật hoặc vụng trộm uống rượu, quyền hạn của thị vệ Vũ Lâm quan thường xuyên rét lạnh trong đêm đông và cùng binh lính chung phòng thủ trong cung cấm, quả thực là một việc phí sức lại chẳng có kết quả tốt.

    Những ngày đầu tuyết tạnh, ánh mặt trời đã bắt đầu ấm áp, xuân về hoa nở. Giống như mưa xuân mượt mà dai dẳng, đào hồng liễu xanh ở Thượng Lâm uyển, ong bướm quấn quýt tất cả tứ phương cung tường xung quanh trời đất ở hậu cung. Cuộc sống trong cung cứ chậm rãi như nước trôi qua đi, như một cái giếng cổ không sóng không gió. Hoàng hậu chủ trì công việc lớn nhỏ trong hậu cung, Mộ Dung Phi ngoài yến tiệc long trọng trong ngày hội ra thì không bước chân ra khỏi cửa, mà tôi lại tận tâm tận lực sắm vai sủng phi, cùng tần phi trong hậu cung chia sẻ sự sủng ái mưa móc của Huyền Lăng.

    Nhìn theo sổ ‘đồng sử’ ghi lại số lần thị tẩm, tôi cũng không phải người được sủng ái nhất. Lăng Dung điềm đạm và khiêm tốn càng khiến Huyền Lăng vui, tiếng ca trong trẻo của muội ấy, giai điệu càng trở nên đẹp nhất trong đêm xuân sắc khôn cùng hậu cung. Mà tôi, chẳng qua có thêm thời gian lưu lại ở Ngự Thư phòng, đúng lúc Huyền Lăng mệt mỏi quốc sự lại cùng chàng tán dóc vài câu, ẩn ý khuyên giải vài câu.

    Rất nhiều khi, Huyền Lăng thích tôi và Lăng Dung cùng ở cạnh chàng làm bạn, tôi lẳng lặng đọc sách hoặc viết chữ; Lăng Dung lại mềm giọng líu ríu, thỉnh than nhẹ hát vài câu, hầu hạ chàng.

    Khi ở cạnh nhau, tôi ít khi nói chuyện với Lăng Dung, có lẽ tận đáy lòng vẫn để ý lời nói lần tình cờ đó. Mà cô ấy, bao giờ cũng muốn nói lại thôi, lét lút nhìn tôi.

    Bên trong cửa sổ mùa xuân tháng ba, cành liễu trước cửa khẽ động, thỉnh thoảng có con bướm hồng nhạt, hương vị ánh sáng mặt trời cũng yên tĩnh không tranh giành. Tôi làm bộ dáng hớn hở nhạt nhẽo, bỏ chút mật ong tăng thêm gia vị của nước trà cho Huyền Lăng uống, chiếc muỗng bạc nhẹ nhàng quấy.

    Lăng Dung ngồi xa xa dưới cửa sổ, cúi đầu thêu cẩm túi hương, thỉnh thoảng cùng Huyền Lăng nói liên miên mấy câu. Lẳng lặng giữa buồng sưởi ấm, mơ hồ nghe thấy chim én hót lảnh lanh và tay Huyền Lăng lật giở từng trang sách tạo âm hưởng giòn tan. Nhìn nghiêng Lăng Dung cúi xuống rất đẹp, cổ gáy thon dài, dưới ánh cửa sổ mạnh mẽ thịnh phóng như cây bích đào ửng hồng có chút đơn bạc, nhưng vẻ đơn bạc này lại tôn lên âm thanh dịu dàng mỏng manh của cô ấy, di chuyển như nước mùa xuân, cả người mặc bộ màu nước hồ và áo choàng xuân cẩm trường y mang phong nhã kín đáo.

    Một lúc lâu sau, Lăng Dung đứng dậy, tươi cười nói : “Thần thiếp mới thêu túi hương muốn tặng Hoàng Thượng, Hoàng Thượng nhìn xem có thích không?”

    Huyền Lăng tựa vào ghế dài nhìn quyển Xuân Thu, nghe vậy ngẩng đầu nhìn túi hương thêu cây bích đào chim chu tước trong tay cô, nói : “ Mấy ngày trước Huyên Huyên có thêu cho trẫm một túi hương, trẫm đã đeo trên người rồi, giờ lại thêm một túi thì hơi lỉnh kỉnh.” Nói xong, mi tâm khẽ nhướn, mỉm cười với tôi.

    Tôi đang tập trung tinh thần pha chén trà, ngoái đầu nhìn lại cũng cười với chàng, thấy chàng thân thiết như vậy, khiến tôi có chút không quen, không quen chút nào. Lưới mắt qua thoáng nhìn ánh mắt Lăng Dung hơi thất thần. Trong lòng tự nhiên hiểu rõ, thêu công của Lăng Dung tinh xảo hơn tôi. Dù sao sau khi tôi một lần nữa hầu hạ Huyền Lăng, đã phát hiện trên người Huyền Lăng mang nhiều đồ vật, thí dụ như dây đeo quạt, túi hương đều từ tay Lăng Dung mà ra, có thể thấy được ngày đó cô ấy được sủng ái rất sâu.

    Nhưng khi Huyền Lăng thấy cô ấy ân cần, thần sắc hơi thất vọng, lập tức cười nói : “Nhưng cái này trẫm cũng rất thích, bảo Phương Nhược để ở tẩm cung của trẫm đi.”

    Lăng Dung mỉm cười dịu dàng nói : “ Chân tay thần thiếp còn vụng về, Hoàng Thượng không ghét bỏ là thần thiếp mãn nguyện lắm rồi.” Ánh mắt Lăng Dung rơi vào túi hương Kim Logn Tử Vân bên hông Huyền Lăng, do chính tay tôi thêu cho chàng, trong mắt biểu lộ tán thưởng, nói : “Tay nghề Hoàng tỷ tỷ thật giỏi, cực kì hợp với khí chất Hoàng Thượng, ngược lại cái của thần thiếp có thể thấp kém quá. Xin Hoàng Thượng thứ tội.” Nói xong liền hành lễ.

    Huyền Lăng vội vàng giơ tay đỡ lấy cô ấy, mỉm cười ôn hòa nói : “Cái này có gì mà thấp kém, trẫm hiểu tâm ý của nàng, làm sao trách tội được.”

    “Tỷ tỷ.” Lăng Dung quay lại gọi tôi, thần sắc điềm đạm bình bình : “Mũi thêu của tỷ tỷ ngày càng đẹp ra đó, chỉ thêu một túi hương uyên ương cho Hoàng Thượng mà có thể diễn tả tình ý của nữ nhi thì càng tốt, Hoàng Thượng cũng nhất định rất thích.”

    Tôi đem chén trà, nhẹ nhàng dâng bên cạnh Huyền Lăng, chăm chú nhìn chàng cười : “ Uyên ương dĩ nhiên là tốt, nhưng Hoàng Thượng ngày đem đeo trên người, ra vào khắp nơi, khó tránh mang nét nhi nữ tình trường. Không bằng phối với rồng sẽ thể hiện vẻ thiên uy, còn về túi hương uyên ương…” Tôi cười ngọt ngào, xinh đẹp nói : “ Thần thiếp sẽ thêu một chiếc nữ đặt ở dưới gối Tứ Lang được không?”

    Rất lâu rồi toi chưa gọi chàng là Tứ Lang. Tự nhiên như vậy đột nhiên thốt ra, lời nói tùy ý vô cùng thân thiết cũng không kịp che giấu. Chàng cũng vui mừng, kìm lòng không được mà ngón nhìn tôi, ánh mắt rất dịu dàng.

    Ngay cả trong lòng tôi cũng kinh ngạc, trong lúc lơ đãng lại gọi thân mật ngày xưa, tôi rất ngờ. Chẳng lẽ ở tận đáy lòng tôi, vẫn còn tình cảm khó tả và khó mất sao ? Tuy cũng bất ngờ giật mình, nhưng xem thần sắc của chàng, muốn nói lại xấu hổ. Tự cảm thấy, hai gò má như bị phỏng, lại đỏ ửng lên.

    Lăng Dung thấy tôi và Huyền Lăng nhìn nhau như vậy, bất giác có chút ngơ ngẩn, nhưng rất nhanh dùng khăn tay che môi nhẹ nhàng cười : ” Hoàng Thượng và tỷ tỷ ân ái như vậy, quả nhiên là một giai thoại.” Cô ấy nhìn tôi, trong ánh mắt hàm chứa một tia thành khẩn và buồn bã, nói : “Hoàng tỷ tỷ tốt phúc như vậy, người ngoài còn cầu cũng không được nữa là.”

    Cô ấy nói như vậy, tôi cũng ngây ra, cùng Huyền Lăng như vậy là ân ái tốt phúc sao ? Trong ân ái này, tôi với chàng, mỗi người có vài phần cuồng dại, vài phần chân ý sao ? Nhưng ảo tưởng trong nháy mắt, đã chuyển thần sắc, lôi lôi kéo kéo cánh tay Huyền Lăng, cười nói : “Hoàng Thượng mau đi khuyên giải đi, An muội muội ghen kìa.”

    Lăng Dung sắc mặt ửng hồng, liền mềm giọng đáng yêu nói : “Hoàn tỷ tỷ lại trêu cười muội, muội làm sao có ý ghen tuông với tỷ tỷ và Hoàng Thượng chứ, không để ý hai người nữa.”

    Huyền Lăng chỉ mỉm cười nhìn, thấy cô ấy nói như vậy, mới kéo tay cô ấy rồi nói : “Thôi, thôi, Dung nhi tính tình khiêm tốn nhất, cho dù ghen cũng phải ủ dấm một tháng, không chua đâu.”

    Chàng nói khôi hài như vậy, tôi và Lăng Dung không dám phì cười. Đàm tiếu nhân gian, tất cả ngăn cách và không vui, mơ hồ bị che dấu đi mất.

    Trong khoảng ba tháng, Huyền Lăng ý muốn để huynh trưởng tôi chỉ huy bộ binh. Lúc ở triều có nghị luận vài lần, duy chỉ có Nhữ Nam vương khó chịu, phe đảng Mộ Dung cũng cực lực phản đối. Nhưng ca ca tôi vẫn được Huyền Lăng kiên trì trao tặng chức Binh bộ ngũ phẩm đốc cấp sự trung, kiêm luôn chức Quốc tướng quân.

    Tuy chức vụ Đốc cấp sự trung có cấp bậc và phẩm chất không cao, nhưng trong tay có nhiều quyền lợi, Hoàng đế giao công việc cho các nha phủ do Lục bộ mỗi năm gạch bỏ một lần, nếu có kéo dài hoặc hành sự bất lực, Đốc cấp lục bộ sự trung có thể báo cáo với Hoàng Thượng, còn có thể cùng Hoàng Thượng tham dự điều động quan viên. Cho nên khi ca ca tiến vị Binh bộ, tất nhiên khiến Nhữ Nam vương rất có cảnh giác.

    Vì việc này, tôi vì ca ca mà toát mồ hôi dầm dề, ở Binh bộ dưới trướng của Nhữ Nam vương, hơn phân nửa là tâm phúc của hắn. Huyền Lăng cử động lần này không thể nghi ngờ nếu như ca ca xâm nhập hang ổ. Vạn nhất có một người không tốt, chỉ sợ ngay cả hi sinh tính mạng cũng không rõ nguyên nhân, huống chi ca ca lại bị người của Nhữ Nam vương giám sát từng cử chỉ. Nếu đã làm bọn họ phòng bị, sao có thể do thám biết phe đảng Nhữ Nam vương che giấu chuyện gì, không chỉ có không công mà lui, càng bứt dây động rừng, tự làm thương bản thân.

    Sau khi ca ca ở Bộ binh, từng lời nói và việc làm đều phải cẩn thận, vẫn trong tình trạng an phận thủ thường. Nhưng cha con Nhữ Nam vương và Mộ Dung tộc đều ở Binh Bộ, Mộ Dung Thế Lan và tôi ở hậu cung là kẻ thù, sao bọn họ có phần nào lơi lỏng để ca ca có cơ hội có thể lợi dụng chứ ! Ca ca và tôi trong ngoài cung tường, cũng đều khổ nỗi vô kế khả thi.Mà nếu ca ca không thể công thành, giờ Huyền Lăng đang ngồi ngai vàng, không biết một ngày kia sẽ là Nhữ Nam vương ngồi. Giang sơn dù không dễ dàng thay đổi, nhưng Nhữ Nam vương lòng dạ hẹp hòi, trời sinh tính hiếu thắng, lại lập đại công lớn, nếu hắn nắm giữa thiên hạ, thì lê dân bách tính sẽ khổ hơn vì chiến tranh, không một ngày bình yên. Tiên Hoàng tự tay khai sáng thời đại thịnh hưng, cũng là vì chiến loạn mà sụp đổ.

    Vì chuyện này, tôi suy nghĩ rất nhiều, phải làm như thế nào để có thể Nhữ Nam vương không cảnh giác và phòng bị với ca ca ?

    Đang lúc này, trong nhà có việc vui truyền đến – đại tẩu Tiết thị có thai. Cha mẹ nào cũng có khát vọng ôm cháu, đều là chuyện vô cùng tốt. Vì thế, tôi dặn người, mời đại tẩu tiến cung.

    Vào một ngày, đại tẩu tiến cung tới bái kiến.

    Tôi vừa thấy tẩu, vẻ mặt vui mừng, vội vàng ngăn tẩu hành lễ, tự mình nâng tẩu dậy, nói : ” Đại tẩu hiện giờ thân thể quý báu của Chân gia, ta không chịu được cái lễ này đâu.”

    Sắc mặt đại tẩu phấn nhuận, không kìm được vui mừng. Tẩu ngồi trên nệm êm, bụng dưới hơi lồi, cơ thể khẽ nghiêng, tạo tư thế bảo vệ đứa bé trong bụng cực kì tự nhiên

    Tư thế quen thuộc như vậy, trái tim tôi lại đau nhói, nỗi chua xót đau khổ ẩn sâu dưới tận đáy lòng gợi lên. Chỉ là một năm trước, cái cảnh tượng giống như này, tôi cũng mới làm người mẹ vui mừng và ngạo mạn, tư thế cũng cẩn thận đang bảo vệ tiểu sinh mạng từ từ lớn dần trong bụng.

    Tôi không để cho bản thân đau buồn ảnh hương tâm tình vui thích của đại tẩu, vì thế miễn cưỡng nén thương cảm, cười nói : ” Nhìn tình hình đại tẩu, chắc cũng được 3 tháng rồi.”

    Đôi má đại tẩu và trán hơi phiếm hồng, cúi đầu nghịch thắt lưng áo, cười nói : “Nương nương có nhãn lực thật tốt. Đúng là đã ba tháng rồi.” Đại tẩu ngừng một lúc, có chút bất an : ” Nhưng mẹ nói bụng thiếp hơi tròn, có thể là nữ nhi.”

    Tôi khuyên giải an ủi : “Đại tẩu không cần lo lắng, mà nữ nhi rất thân thiết với cha mẹ.Nếu thai đầu là nữ nhi, vậy về sau lại lần hai hay lần ba lại là nam nhi, chỉ sợ lúc đó đại tẩu lại ngại nam hài tử phiền phức.” Nói xong, bản thân cũng không nhịn được nở nụ cười.

    Nét mặt đại tẩu đối với sanh con dưỡng cái lo lắng cực kì : “Nếu như liên tục sinh nữ nhi, không biết phu quân có tức giận không ?”

    Tôi không cho là đúng, cười, nói : ” Ca ca không phải là người như thế. Tuy cha mẹ hi vọng có tôn tử để ôm ấp, nhưng nữ nhân cũng không nhất định không tốt. Khi thời Hán Vũ Đế, Vệ Tử Phu làm hoàng hậu, thiên hạ lại ca ‘ sinh nam chớ hỉ, sinh nữ đừng buồn, chẳng thấy Vệ Tử Phu độc chiếm giang sơn’, có thể thấy nếu sinh nữ nhi tốt, có thể sánh bằng một vạn nam tử tầm thường còn mạnh hơn.”

    Đại tẩu nghe vậy hơi vui mừng, xấu hổ nói : “Thiếp không có cái gì, chỉ trông mong phu quân bất luận là nam hay nữ nhi cũng đều yêu thương nó thật tốt.”

    Tôi thở dài : ” Nữ tử trong cung đều muốn sinh hạ một nhi tử để dựa vào suốt đời, đến lúc về già có thể dựa vào, ngộ nhỡ lại được làm Thái hậu. Mắt thấy Thành phi có con mà chết, chẳng bằng Hân quý tần và Tào tiệp dư sinh công chúa mà vẫn bình an vững chắc. Chỉ là tôi, ngay cả nam hay nữ nhi cũng không có, trong mắt người dưng cho dù vinh sủng hiển hách bao nhiêu cũng chỉ là tấm bèo không có gốc mà thôi.”

    Đại tẩu thấy tôi nói lời thương cảm, vội hỏi : ” Nương nương còn trẻ, cuộc sống còn dài, có Hoàng Thượng sủng ái muốn có hài tử còn sợ khó sao ? Nương nương bớt buồn là được.”

    Tôi khẽ gật đầu, cũng nói : “Vậy đại tẩu cũng bớt buồn như thế nhé !”

    Tuy là nói như vậy, đại tẩu nhẹ chau mày, nói ra tâm sự trong lòng : “Nếu như không có nam hài, liệu cha mẹ có để cho phu quân nạo thiếp hay không ?” Tẩu trầm mặc trong phúc chốc, lại nói : ” Mấy ngày nay phu quân luôn rầu rĩ không vui, thiếp cũng không dám tùy tiện nói gì với ngài ấy.”

    Lời đại tẩu nói chính là lời tẩu lo lắng, mà tôi cũng suy tư suốt mấy ngày liền, như xé tan màn đen nhìn thấy ánh sáng gây xích mích suy nghĩ của tôi, không khỏi cảm thấy sáng tỏ thông suốt. Vì thế nói với đại tẩu : ” Ca ca là người trọng tình, nếu thật sự vì sinh con nối dòng mà nạp thiếp, địa vị chính thê của đại tẩu cũng không bị lung lay đâu, đại tẩu không nên lo lắng quá. Cùng lắm sau này có hiềm khích, ta sẽ vì đại tẩu mà quyết định chuyện đó.”

    Thần sắc của tẩu có chút vui mừng, khuôn mặt đỏ hơi hổ thẹn : “Thiếp không phải một mặt đố kỵ, không hiểu lí lẽ, chỉ thân là nữ tử, chỉ luôn hi vọng phu quân thích một mình thiếp, không cần nạp thiếp.”

    Tâm tư như dây dàn bị những lời tàn nhẫn này kích thích, chỉ là với tôi, ý nghĩ ở lại trong lòng như vậy chỉ tự tìm phiền não mà thôi, hà tất phải nghĩ nhiều. Lại làm như không nghe thấy, cười cho qua, lại nói : “Đại tẩu cũng biết ca ca rầu rĩ không vui vì cái gì sao ?”

    Đại tẩu nghĩ đơn giản, nói : “Là chuyện của Bộ Binh, lần thăng thức này, hình như phu quân không hài lòng.Nhưng phận làm nữ nhân như thiếp, gấp cái gì cũng không giúp được.”

    Tôi hơi mỉm cười, dặn Cận Tịch khép phòng lại, mới nói : “Đích thật ca ca bởi chuyện Binh bộ mà không vui, nhưng không phải vì Hoàng Thượng thăng chúc, mà lo lắng bản thân không thể hoàn thành ý chỉ của Hoàng Thượng. Thật ra đại tẩu không nên tự coi nhẹ mình, chỉ cần tẩu có tâm, coi như đã giúp ca ca hoàn thành sự nghiệp rồi.”

    Đại tẩu nghe được lời ấy, trên mặt lộ vẻ thần thái vui mừng, nghiêm túc nói : ” Chỉ cần khiến phu quân không rầu rĩ nữa, thiếp nguyện tan xương nát thịt.”

    Đại tẩu có tình ý sâu nặng với ca ca như vậy, tôi cũng vô cùng cảm phục, trong lòng nóng lên, cầm tay tẩu : “Tẩu có tài có đức như vậy, nhà Chân gia ta thật may mắn. Ca ca có người vợ như vậy, đúng là phúc khí khó cầu cả đời của ca ca, cũng là phúc khí của nhà chúng ta, sao lại để tẩu tan xương nát thịt chứ ! Chỉ cần tẩu làm ……”

    Vì thế, tôi ghé vào bên tai đại tẩu, nói nhỏ.

    Lúc đầu đại tẩu không hài lòng, khi nghe hết, đã tươi cười rạng rỡ, liên tục gật đầu nói : “Chuyện đó có đáng gì, thiếp sẽ cố gắng hết sức.”

    Tôi cười nói : ” Hoàn toàn không khó. Làm phiền tẩu, ta ở đây cảm tạ trước.”
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 8: Ngọc Ách
    Đợi đến khi đại tẩu cáo từ, cực kì hứng thú lại ngồi liễn đến Nghi Nguyên điện. Tâm trạng vô cùng tốt, nhìn đến trên đường non sông tươi đẹp cũng xuân ý nồng đậm, đặc biệt xinh đẹp động lòng người.

    Nhưng vừa mới hạ liễn, đã thấy Lý Trường chạy một mạch tới, tự mình đỡ tay tôi nói : “ May mà nương nương đến đây! Hoàng thượng đang tức giận, lệnh bọn nô tài ra ngoài. Xin nương nương bất kể thế nào cũng đi khuyên Hoàng thượng, bọn nô tài có phúc mấy kiếp rồi.” Tôi thấy thần sắc hắn sầu lo, không giống thường ngày. Thầm suy nghĩ Lý Trường hầu hạ Huyền Lăng nhiều năm, tình cảnh các loại lớn nhỏ trong cung, cũng rất bình tĩnh, hắn gọi kinh hoàng như vậy, tất nhiên là có chuyện lớn xảy ra.

    Vì thế, vẻ mặt ôn hòa nói : “ Tuy bản cung không hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì khiến Hoàng thượng tức giận như vậy?”

    Lý Trường cúi đầu giống như nhìn bậc thang, trong miệng nói cực khẽ : “ Hình như là vì Nhữ Nam vương dâng tấu chương.”

    Trong lòng tôi đột nhiên căng thẳng, cước bộ hơi ngưng trệ, tưởng rằng ca ca xảy ra chuyện. Nhưng suy nghĩ lại, nếu là ca ca gặp chuyện không may, tất nhiên Huyền Lăng sẽ phái người đi trấn an Nhữ Nam vương cũng điều động binh mã chuẩn bị cho vẹn toàn, sao còn rảnh rỗi ở trong ngự thư phòng lên cơn giận dữ chứ. Nghĩ như vậy, cũng thoáng yên tâm hơn chút, lại hỏi : “ Ngươi có biết tấu chương nói cái gì không?”

    Lý Trường hơi ngượng nghịu, lập tức nói : “ Hình như là tấu chương xin thỉnh phong.”

    Tôi hơi nhíu mày, trong lòng ghét, Nhữ Nam vương thật không biết vừa lòng, một tháng trước còn phong con cái của hắn làm thế tử và công chúa, vinh sủng không gì sánh được. Mới đảo mắt lại xin phong, nếu muốn phong thưởng, cũng chỉ có thể để ấu tử của hắn kế tục vị Vương, hoặc sớm gả nữ nhi của hắn đi.

    Nghĩ đi nghĩ đi cũng thấy không ổn, nếu như không phong thì ban thưởng vàng ngọc gấm lụa là được. Huống chi Huyền Lăng không phải là người có tính cáu kỉnh.

    Đang nghĩ ngợi, đến nơi, thấy trong điện bỗng nhiên truyền đến “đoảng đoảng” một tiếng ngọc rơi vỡ rụng xuống đấy, dần dần là tiếng tí tách mảnh vụn. Thật lâu sau, trong điện chỉ là một mảng yên tĩnh đáng sợ.

    Tôi và lý trường đưa mắt nhìn nhau, trong lòng mình cũng rất đỗi nghi hoặc, không biết vì sao Huyền Lăng lại tức giận. Lý Trường lo lắng, nhỏ giọng nói : “Bây giờ sợ chỉ có nương nương có thể vào khuyên giải mấy câu thôi.”

    Tôi gật đầu, đưa tay mở cửa điện kim khảm ngân đỏ thắm. Phía bên cạnh mở rộng, không gian yên tĩnh chỉ trông thấy gạch thêu hoa văn bằng kim tuyến trên mặt đất u mê khờ dại.

    Trên án kỉ được tráng men là lò đốt đơn giản chàng hay dùng hương Tiên Long, khó nhẹ mỏng như sương lượn lờ từng đợt từng đợt dây đưa xâm nhập vào chỗ sâu điện các, thơm ngát ngưng tự càng thêm hòa nhã. Chàng ngồi trên ghế rồng khắc hoa, khó nhẹ tự phảng phất qua mặt chàng, cái loại tức giận này giống như ngưng tự ở ấn đường, như chút mây đen, đông tự không tiêu tan.

    Tôi lặng lẽ chạy đến, trong lúc này không dám tùy tiện đến hỏi cũng không nói cái gì. Chỉ là đem lò đốt trên án kỉ đặt dưới bệ cửa sổ, cánh rừng gần cửa sổ được rộng mở, liền có gió xuân ấm áp từ từ đi vào.

    Giọng nói của chàng có phẫn nộ, có mệt mỏi, mênh mông : “Nàng tới đây rồi à?”

    Tôi khẽ nói : “ Vâng. Thần thiếp đã đến đây.”

    Lúc đó, sắc trời đã trễ, trời chiều sặc sỡ chói lọi khắc hoa văn chạm rỗng rơi rớt tiến vào, đầy phòng là một mảnh ửng đỏ. Gió thổi qua rừng cây sau điện, lá cây rì rào vang lên, giống như hạt mưa rơi xuống giữa mái hiên.

    Tôi tự lấy hai lá bạc hà tươi mới trong cái khay bạc và cúc trắng để vào giữa chén trà, dùng nước sôi ngâm, rồi đổ đi lấy nước mật ong vào, đặt ở trước mặt chàng, chân thành hòa nhã nói : “ Hoàng Thượng uống chút trà đi, có thể bình tâm vui vẻ hạ hỏa một chút.” Dứt lời cũng không nói gì nữa, chỉ lấy chút dầu bạc hà trong hộp khảm vàng ở trên đầu ngón tay, chậm rãi xoa huyệt thái dương cho chàng.

    Chàng từ từ uống ngụm trà, thần sắc dịu đi một chút, mới hỏi : “ Sao nàng không hỏi lý do trẫm tức giận?”

    Tôi điềm tĩnh mỉm cười : “ Hoàng thượng còn đang tức giận, chờ hết giận muốn nói cho thần thiếp thì tự nhiên sẽ nói. Nếu thần thiếp một mặt truy vấn, sẽ chỉ làm Hoàng thượng càng thêm tức giận.”

    Chàng giơ tay lên khẽ vỗ tay an ủi tôi, chỉ vào tấu chương bằng lụa vàng trên bàn, nói : “ Tự nàng nhìn đi.” Chàng căm hận: “ Huyền Tế lại to gan như vậy!”

    Tôi theo lời, đưa tay lấy tấu chương, vừa xem thấy cũng không khỏi sợ hãi.

    Hóa ra là tấu chương này, điều không phải là Nhữ Nam vương xin phong cho vợ con, mà là yêu cầu truy phong mẹ ruột của mình Ngọc Ách phu nhân làm Ngọc Quý thái phi, rồi hợp tang vào phi lăng của tiên đế.

    Nữ nhân phi tần có công sinh dục sau khi tại tiên hoàng đều có thể làm thái phi, an hưởng vinh hoa phú quý. Cũng tặng phong hào, mẹ ruột Nhữ Nam vương là nhất phẩm phu nhân, tuy mất sớm, nhưng truy phong cũng có tình có lý.

    Chỉ là trong lúc này có nguyên do.

    Khi tiên đế tại vị, huynh trưởng của Ngọc ách phu nhân Bác Lăng ý định mưu phản, Ngọc ách phu nhân liên lụy, vô sủng buồn bực mà chết. Mãi đến khi mất, tiên đế mới thăm viếng, nhưng Ngọc ách phu nhân nói ra lời oán hận, hận tiên đến và Thư quý phi. Tiên đế dưới cơn giận dữ không cho phép Ngọc ách phu nhân chon vào phi lăng, cũng không được nhắc đến chuyện truy phong, chỉ làm theo Nghi quý tần sát hại tiên đế Chiêu Hiến thái hậu táng cùng một chỗ.

    Bởi tiên đế không truy phong, huống chi Ngọc Ách phu nhân là một tội thần. Huyền Lăng là người thừa kế ngai vàng, tất nhiên cũng sẽ không truy tặng Ngọc Ách phu nhân làm thái phi rồi.

    Tôi khép tấu chương lai, bất giác biến sắc, nói : “Vậy….. Nếu Hoàng thượng theo NHữ Nam vương truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Ngọc Quý thái phi, khác nào không để mặt mũi cho tiên đế? Hoàng Thượng muốn xử lý thế nào?”

    Huyền Lăng ra sức đập bàn, nói : “Thụ tử! Rõ ràng muốn đẩy trẫm vào tội bất hiếu, không nghĩ đến thể diện của Tiên hoàng.”

    Tôi thấy chàng tức giận như vậy, vội vàng xoa tay chàng, án kỷ dùng những tấm gỗ lim cứng rắn mà thành, góc cạnh khắc hoa, tay Huyền Lăng tấy đỏ.

    Lòng tôi hơi tê rần, nắm tay chàng nói : “Hoàng Thượng bớt giận. Đừng vì hắn mà tức giận, há lại làm tổn thương thân thể mình, lại càng không đáng.”

    Huyền Lăng nói : “ Muốn nhẫn nhịn cũng không thể nhịn được! Dù trẫm chịu làm đứa con bất hiếu, sao thái hậu lại đồng ý chứ?”

    Tôi nghĩ ngợi, nói : “ Nếu truy phong Ngọc Quý thái phi thật sự không ổn. Tứ phi quý, thục, hiền, đức là những người khác nhau, mẹ ruột của Thanh Hà vương là Thư quý phi còn tại nhân gia, nếu muốn truy phong bà, cũng là Quý Thái phi, vậy Thành Hà vương rơi vào tình trạng xấu hổ rồi. Khó tránh khỏi tình cảm huynh đệ tương tàn.” Thấy Huyền Lăng trầm tư, tôi lại nói : “ Kỳ Sơn vương Huyền Tuân là con trưởng của tiên hoàng, hiện giờ Khâm Nhân thái phi có vị phần thái phi tôn quý nhất hoàng cung, nếu Khâm Nhân thái phi cũng không được truy tăng thục thái phi hay hiền, đức thái phi, chỉ sợ Kỳ Sơn Vương cũng không chịu phục.”

    Tôi nói trắng ra, theo như Nhữ Nam vương dâng tấu, thì chư vị vương gia và trong lòng thái phi tất có hiềm khích, vậy giữa triều đình và hậu cung sẽ không được yên ổn.

    Liên quan lợi hại như vậy, chẳng trách Huyền Lăng tức giận lôi đình.

    Huyền Lăng chỉ là không nói được một lời, gân xanh trên trán buồn thiu bạo động, giận quá thành cười, nói : “Nếu trẫm chuẩn tấu cho hắn, sẽ mất lòng triều đình và hậu cung; nếu không chuẩn tấu, nhất định hắn sẽ ghi hận trong lòng, những lần xoa dịu trước đây xem như uổng phí rồi.”

    Thấy chàng thông suốt như vậy, tôi cũng yên lặng, mãi lúc sau mới nói : “Nếu hắn lập tức khởi binh, Hoàng thượng có bao nhiêu phần thắng?”

    Trong mắt chàng chớp lóe tinh quang, ảm đạm trong chốc lát : “ Trong tay trẫm có 15 vạn binh, 10 vạn rải rác các quan ải, 5 vạn tập thủ lại kinh thành và các vùng lân cận.” Chàng ngừng một chút : “ Trong tay Nhữ Nam vương không dưới 50 vạn tinh binh, bố trí ở các quan ải trong cả nước.”

    Tôi sợ hãi, nói : “ Vậy Hoàng thượng cần bao lâu mới có thể bố trí chu toàn, dấy binh đoạt thành?”

    Chàng nói : “ Mất khoảng nửa năm người thân tín của trẫm có thể biết được tính danh chức quan phe phái của Binh Bộ và Nhữ Nam vương, lệnh cho các thủ thành tướng giải quyết cướp đoạt 50 vạn tinh binh của Nhữ Nam vương, trẫm sẽ một lưới bắt hết, vậy thì trong 1 năm có thể phục sát đất rồi.” Chàng khẽ cười khổ : “ Nhưng hắn tiến sát từng bước, chỉ sợ nơi này trẫm đối hắn chưa rõ lòng bàn tay thì hắn đã dấy binh khởi động rồi.”

    Chàng có nhiều bất đắc dĩ và nhẫn nhịn như vậy. Thân là nữ tử trong hậu cung, suốt ngày đóng kín tường đỏ bốn phía, đối với triều chính, tôi không hiểu nhiều lắm, càng không thể can thiệp nhiều. Nếu không có chuyện lợi ích của bản thân và gia đình, tôi cũng không dám mạo hiểm đi thám thính. Từ trước tới nay tôi tiếp xúc với Huyền Lăng, chỉ trong khoảnh thời gian nhàn rỗi nói chuyện tình yêu nam nữ.

    Đột nhiên biết được như vậy, cảm thấy có chút đau lòng và sáng tỏ. Trong cung đình này, chàng có bất đắc dĩ của chàng, tôi có bất đắc dĩ của tôi. Đế vương tương tướng, hậu phi tần ngự, lại có người nào không phải sống trong bất đắc dĩ của chính mình, đều bị cản trở.

    Tôi không cầm nổi lòng mà cúi người, yên tĩnh nằm trên đầu gối chàng bằng gấm vóc thêu ly long màu đen, những chỉ vàng thêu không hề mềm mại, đâm vào má tôi gây ngứa ngáy. Tôi nói khẽ : “ Vậy thì vì kế lâu dài, Hoàng thượng chỉ có thể nhẫn nhịn.”

    Thân thể của chàng hơi chấn động, động tác nhỏ như thế, nếu không có nằm trên đầu gối của chàng, cơ hồ không hề phát hiện ra. Chàng ngửa mặt lên trời, thở dài một tiếng : “Huyên Huyên, vị Hoàng đế này có quá bất lực không?”

    Trong lòng thoáng dâng lên nỗi chua xót, ngẩng đầu lên, bình tĩnh nói : “Hán cảnh đế Lưu Khải vì 7 nước chư hầu loạn lạc mới bất đắc dĩ giết Triều Thác; quang võ đế Lưu Tú vì hưng phục triều Hán lại từ đâu thù giết huynh trưởng phải nhẫn nại, thậm chí khi đăng cơ vì muốn ổn định triều chính cũng không thể sắc phong Âm Lệ Hoa mình yêu thương làm Hoàng Hậu, chỉ có thể phong Quách thị nữ. Nhưng cũng vì bọn họ bình định thiên hạ, khai sáng thịnh thế. Đại phu biết co biết duỗi ( biết ứng phó thích hợp với tình hình cụ thể), Hoàng thượng kiềm chế, mới có thể vì triều đình, không phải là bất lực, mà là khuất vì chính trị.”

    Tay chàng nhẹ nhàng xoa xương bả vai tôi, thở dài : “ Huyên Huyên, nói chuyện với nàng, trong lòng trẫm rất thoải mái.”

    Tôi lắc đầu : “Thần thiếp không phải an ủi hoàng thượng, thực tế là vậy.”

    Giọng nói của chàng nhàn nhạt có chút tàn nhẫn, bóng tối chìm trong cung điện nghe thấy ngọn gió có chút ồ ồ : “Không sai. Quả thực trẫm muốn nhẫn nại.” Chàng lạnh lùng mỉm cười : “ Nhưng trẫm phải nhịn như thế nào?”

    Hai tay tôi cầm tay chàng thật chặt, cố nén đáy lòng kích động và phẫn hận, ngẩng mặt lên, thần sắc ngữ điệu bản thân ổn định, nhẹ giọng mà kiên định : “ Cầu xin Hoàng thượng theo lời Nhữ Nam vương truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Qúy thái phi, mai táng vào phi lăng tiên đế.”

    Chàng tương đối khiếp sợ, tay vô ý chạm vào cốc trà. Nghe thấy tiếng ‘loảng xoảng’ bể vỡ, chàng làm như không nghe thấy, lật tay dùng lực nắm cánh tay tôi, nói : “ Nàng cũng nói như vậy?” Tôi muốn nói tiếp, nhưng lại có quan thái giám ở ngoài thăm dò hỏi : “Hoàng Thượng —-“

    Tôi lập tức đứng lên giương giọng nói : “Không có gì, lỡ tay làm rơi cốc trà mà thôi, lát nữa dọn dẹp đi.” Ngoảnh đầu lại đến gần chàng, vội vàng đến : “ Hoàng thượng bớt giận. Thỉnh hoàng thượng đừng tới đây, gốm sứ bị vỡ sẽ bị thương đấy.” Nói xong, nhanh nhẹn ngồi xổm người nhặt những mảnh sứ cốc trà.

    Tôi quỳ trên mặt đất, nhìn không chớp mắt coi chàng, từng câu từng chữ nói rõ ràng : “ Xin Hoàng thượng truy phong Ngọc Ách phu nhân là Hiền Thái phi, còn phong hiệu thêm, táng vào phi lăng tiên đế. Đồng thời tiến cung trong cung các vị thái phi, còn phong thêm tôn hiệu. Nhất là mẹ ruột của Kỳ Sơn vương Khâm Nhân thái phi là Thục Thái phi, dưỡng mẫu của Bình dương vương Trang Hòa Thái phi là Đức thái phi, phong cùng Ngọc Ách phu nhân. Càng phải phong thêm tôn hiệu của Thái hậu, tỏ tình hiếu nghĩa của Hoàng thượng.”

    Giọng nói vừa bỏ lại, trên mặt Huyền Lăng đã lộ vẻ vui mừng, lực đạo nắm cánh tay tôi lại quá nặng, kéo tôi ngồi dậy vui vẻ nói : “Đúng rồi. Hắn đòi hỏi truy phong mẫu thân của hắn, vậy thì trẫm sẽ lấy danh nghĩa cầu phúc cầu an cho Thái hậu mà gia phong tôn hiệu cho các vị thái phi, như vậy tiền triều và hậu cung đều không dị nghị.”

    Tôi mỉm cười tiếp lời nói : “Đâu chỉ như vậy. Chẳng những ngôn quan không có nghị luận, các vị thái phi và chư vị vương gia cũng cảm tạ ân đức Hoàng thượng, càng đồng tâm đồng lực thành tâm cống hiến sức lực với Hoàng thượng rồi.” Tôi muốn suy nghĩ, lại nói : “Nhưng mẫu thân của Lục vương Thư quý thái phi đã xuất gia, cần phải an trí thế nào? Nếu bỏ bà ấy một bên mà không phong, chỉ sợ mặt mũi Lục vương không tốt.”

    Huyền Lăng không cho là đúng : “ Lão Lục sẽ không để ý những thứ này đâu.”

    Tôi mỉm cười khuyên nhủ : “ Lục vương tuy không để ý, nhưng lòng tiểu nhân lại cho rằng Hoàng thượng khinh thường Lục vương, như vậy cũng không tốt. Vốn là huynh đệ đồng tâm, vô tâm bị người khác coi có tình, không bằng vẫn xin Hoàng thượng có tâm với Lục vương.”

    Tâm trạng Huyền Lăng rất tốt, nói : “ Chuyện này có khó gì, Thư Quý thái phi đã xuất gia, tôn hiệu không nên thêm. Trẫm phong Thư Quý thái phi là Xung Tĩnh nguyên sư.”

    Tôi mỉm cười : “ Như vậy không có gì không ổn rồi.”Huyền Lăng nhẹ nhàng hừ mũi, lạnh lùng nói : “ Bây giờ muốn truy phong Ngọc Ách phu nhân chẳng qua là kế tạm thích ứng, có chút bất đắc dĩ. Nếu như sau này phục tùng Nhữ Nam vương, trẫm lập tức hạ chỉ noi theo chuyện tình Chiêu Hiến thái hậu, linh vị không được nhập thái miếu hương khói tế tự, tử cung không thể nào nhập hoàng viện, đời sau cũng không được xây tôn hiệu. Nếu không khó tiêu mối hận hôm nay!”

    Nghe chàng tính toán như vậy, chỉ ảm đạm. Nhữ Nam vương vì mẫu thân cầu vinh.Cái vinh nhất thời đó, về sau vô cùng khuất phục. Cho nên cũng không tiếp lời, chỉ nói : “ Nhưng kính trọng thái phi là chuyện trong hậu cung, nên bẩm báo thái hậu, thông báo cho hoàng hậu.”

    Huyền Lăng nói : “ Hiển nhiên rồi.”

    Tôi nhẹ giọng ghé vào lỗ tai chàng : “ Hoàng thượng, chỉ cần chúng ta theo thứ tự mà tiến, tự nhiên rõ như lòng bàn tay. Chuyện của huynh trưởng, thần thiếp hơi tính toán, xin hoàng thượng cân nhắc quyết định.”

    Tôi tỉ mỉ kể rõ, Huyền Lăng nói : “ Như vậy cũng tốt. nàng không hổ là ‘giải ngữ hoa’ của trẫm, chủ ý như vậy cũng muốn nghĩ ra được.”

    Tôi lại cười nói : “ Hoàng thượng vì thiên hạ khổ sở vất vả, thần thiếp không hiểu triều chính, chỉ có thể để ý một ít chuyện thôi.”

    Chàng cười đến sang sảng : “ Thiên lý chi hành, tích vu khuể bộ. Nàng vì suy xét việc nhỏ nào biết không phải là đại sự?”

    Sắc trời mờ mịt, ngay cả ánh tà dương cũng bị ánh trăng thay thế, gió lẳng lặng, dẫn theo mùi hoa ngọc lan thấm lạnh thơm nhu nhuận hơn, từ từ thổi tóc mai tôi.

    Tôi đứng dậy, thổi sáng hộp quẹt, từng cái từng cái cây đèn tong điện được thắp sáng. Trong điện dùng cây đèn tiêu kim cứng rắn, mỗi cái giá cắm nến đều có 9 chính, dương dương tự đắc, không có chút khói khí và sáp khí đốt, lại không làm hỏng hương liệu Úc Hương được đốt cháy trong điện. Ngọn lửa bắt đầu sáng rực, trong điện sáng sủa như ban ngày.

    Tôi nhẹ nhàng đứng cắm giá nên ở bên cạnh, thổi tắt hộp quẹt. Tâm tư từ từ chuyển động, cuối cùng cũng kìm nén lòng, lại kìm nén hung ác, nín thở khó khăn, giọng nói trầm trầm như suối nước lạnh dưới băng, bình tĩnh nói : “ Xin hoàng thượng ban thêm ân đức rộng lớn, phục hồi danh vị Hoa phi của Mộ Dung phi.”

    Huyền Lăng ngẩn người, căn bản đang vui mừng lại ngừng, đến cạnh tôi nói : “ Trẫm phục vị cho cô ta, vậy làm sao…. Không làm thất vọng nàng? Làm sao bịt được miệng người đời lời ra tiếng vào?”

    Lồng ngực cứng đờ, suýt nữa không nhịn được, nếu để Mộ Dung thế lan ở bên cạnh, mặc dù không sủng hạnh, nhưng vẫn cẩm y ngọc thực như cũ, làm sao không làm tôi thất vọng? Nếu là như vậy, tôi thà phục danh vị của cô ta. Nữ tử như vậy, một khi đắc ý lơ là mới có khuyết điểm tìm ra. Huống chi chỉ có cô ta trở lại vị trí cũ, Mộ Dung tộc mới có thể thật sự yên lòng.

    Nghĩ như vậy, trong lòng chua xót bi thương, trong mắt dửng dưng có lệ quang. Sắc phong Ngọc Ách phu nhân cũng khiến Huyền Lăng gắng gượng và khó xử. Mà muốn Hoa phi trở lại vị trí cũ do chính miệng tôi nói ra, chẳng phải càng khó xử miễn cưỡng hơn sao?

    Nhẫn nại, chỉ có nhẫn nại. Giống như dây cung bị kéo căng, mới có thể khiến mũi tên bắn ra thật xa, chuẩn, mạnh mẽ. Mới vừa rồi khuyên giải an ủi Huyền Lăng, cũng khuyên giải an ủi bản thân tôi.

    Kiềm nén cổ họng nghẹn ngào và bi phẫn, lẳng lặng nói : “ Truy phong Ngọc Ách phu nhân làm thái phi làm yên ổn tâm Nhữ Nam vương, phục hồi danh vị Hoa phi để yên ổn tâm Mộ Dung tộc. Cho dù Nhữ Nam vương không có lòng đế vị, nhưng cũng không muốn bị xúi giục dưới tay hắn, chỉ sợ cái người đó muốn làm khai quốc công thần. Nếu hoàng thượng chịu trấn an Hoa phi, như thế dã tâm tộc Mộ Dung càng tranh giành, càng nhiều phần thắng.”

    Chàng đau buồn, không đành lòng nhìn tôi, nói : “Huyên Huyên, trẫm…..để nàng phải tủi thân rồi.”

    Tôi chậm rãi quỳ gối, nói : “Thần thiếp không sợ tủi thân. Vì Hoàng thượng, thần thiếp sẽ tận tâm nhường nhịn Hoa phi, không tranh chấp nổi.” Nước mắt, cuối cùng cũng chảy xuống, là vì chàng, lại càng vì chính mình.

    Ví muốn trấn an gia tộc Mộ Dung, trước sau gì chàng cũng phải phục hồi danh vị Mộ Dung Thế Lan lần nữa. Thấp nhất là danh hiệu Hoa phi, nếu tình thế bức bách, chỉ sợ danh hiệu Phu Nhân cũng không phải không có khả năng. Thay vì như vậy, tôi thà nói ra, thà cho cô ta danh vị Hoa phi, thà để Huyền Lăng bởi vì tôi mà phong thưởng cho cô ta, khi đó còn bất đắc dĩ hơn, đối với tôi cảm kích xấu hổ và đau lòng. Cảm xúc càng nhiều, địa vị của tôi càng ổn định, càng sủng ái thêm.

    Tôi buồn bã cười khổ, từ lúc nào tôi đã trở nên giỏi tính kế, ích kỉ và lạnh bạc như vậy. Không cam chịu bản thân có khả năng trở về như cũ.

    Huyền Lăng chỉ trầm mặc rất lâu, cũng không biết trải qua bao lâu, chàng nhẹ nhàng nói : “ Được.”

    Tiếng gió ngoài điện nức nở có chút bi thương, giọng nói Huyền Lăng lại trầm, dương như rơi rớt cái gì đó rất trầm trọng, ánh nến lay động, thoáng thấy thần sắc chàng có chút mơ hồ, chàng nói : “ Trẫm nhớ nàng vừa mới nói Hán Quang Vũ Đế, bất đắc dĩ vì triều đình ổn định mới lập Quách thị mà hắn không thích làm hậu, lại để Âm Lệ Hoa hầu hạ Quách Hậu. Hôm nay trẫm bất đắc đĩ, lại bắt chước Quang Vũ Đế chịu đựng nắm cánh tay Quách thị, muốn sủng hạnh một nữ nhân mình không thích.”

    Tôi lắc đầu : “ Sao thần thiếp có thể so sánh Âm Hoàng hậu chứ? Chỉ là thần thiếp quan sát sách sử, về sau gia tộc Quách thị mưu phản, Quang Vũ Đế phế Quách thị, lập Âm thị làm hậu, cuối cùng ước nguyện được đền bù.” Tôi nhìn Huyền Lăng : “Chiến công Hoàng Thượng nhất định không kém hơn Quang Vũ Đế.”

    Chàng ôm chặt tôi : “ Huyên Huyên, nàng có hiểu vì sao khi nàng mất con, trẫm lại không đến thăm nàng không?”

    Đột nhiên chàng nói câu đấy, trong lòng gợi lên trí nhớ chua xót, ngày đó nghe cuộc trò chuyện ở sau Nghi Nguyên Điện, vẫn còn canh cánh trong lòng. Tôi quay đầu, nói : “Có lẽ thần thiếp trời sinh tính bướng bỉnh, sau khi mất con đau lòng mạo phạm đến Hoàng Thượng.”

    Cằm chàng đặt trên cổ gáy tôi, có chút đau cứng nhắc : “Tuy tính nàng có chút bướng bỉnh, nhưng cũng không hẳn vì lý do này.” Giọng chàng có chút ngấp ngửng, chỉ ôm tôi vào lòng : “ Nàng có biết vì sao Mộ Dung phi không có thai không?” Lòng tôi kinh sợ, cơ thể như được vùng vẫy, chàng vẫn nói tiếp, lại giống như đó không phải giọng chàng, có chút áp lực đau khổ : “ Trong cung nàng ta có Hoan Nghi Hương, là trẫm đích thân ban cho nàng ta — ở bên trong có một ít xạ hương, nếu dùng nhiều, sẽ không thể có thai được.”

    Lý do trong chuyện này tôi cũng biết, nhưng đột nhiên chính miệng chàng nói cho tôi, tôi rất đỗi ngạc nhiên.

    Chân tướng như vậy, bản thân tôi cũng đoán được đại khái. Đối mặt chân tướng tàn khốc như vậy, nghe chàng nói cho tôi, cho dù tôi hận, hiểu ra được nhưng vẫn cảm thấy không chịu nổi.

    Tôi cúi xuống, thương cảm không thôi, nói : “Hoàng thượng, người nói cho thần thiếp biết là đủ rồi.”

    Chàng không đồng ý buông tay, nói : “ Nàng nghe trẫm nói. Nàng ở trong cung nàng ta quỳ nửa canh giờ thì sảy thai, trong lòng trẫm bất an, chỉ sợ nàng cũng từng nghe thấy là do Hoan nghi hương. Mỗi lần gặp nàng lấy nước mắt rửa mặt tưởng nhớ hai tử oán hận Hoa phi, trẫm bứt rứt không thôi, nàng hận Hoa phi, trẫm lại cảm thấy nàng hận trẫm. Là do trẫm hại hài tử của chúng ta.”

    Tôi nhịn không được, trong lòng như có móng hung hăng gãi, lôi lôi kéo kéo, từng lúc từng lúc giật giật. Nước mắt rơi lã chã, chỉ ra sức bắt lấy vạt áo chàng, khóc đến nghẹn ngào không nói nên lời.

    Ngữ khí của chàng trầm trọng dày đặc như tuyết đọng : “ Nàng không cảm thấy được trẫm không phải người cha tốt?”

    Tôi buồn bã lắc đầu : “Không….” Nửa ngày mới mở miệng được : “ Quân vương phải có sự quyết đoán của quân vương…..”

    Chàng vỗ lưng tôi, thê thảm nói : “ Trẫm cũng có lúc bất lực, Hoa phi không thể có con, chỉ cần nàng ta sinh hạ hoàng tử, Nhữ Nam vương sẽ cùng tộc Mộ Dung vì đứa nhỏ này xưng đế, trẫm ngay cả muốn nương thân cũng không có. Đúng như lời nàng nói, trẫm không thể không sủng hạnh nàng ta để trấn an lòng người. Trẫm ra hạ sách này, cũng không muốn làm dính dáng đến nàng.”

    Tôi đột nhiên nhớ tới một chuyện, mở to hai mắt : “Cuối cùng năm đó Hoa phi sảy thai?….”

    Chàng chậm rãi gật đầu : “Năm đó Đoan phi bị oan uổng.”

    Tôi rơi lệ : “Việc này tất nhiên bí mật, nhưng sao Hoàng thượng lại muốn nói cho thần thiếp?”

    Mắt chàng mơ hồ ngấn lệ : “ Trẫm là quân, cũng là người cha. Trẫm giết đứa con của mình, làm sao có thể không đau?!” Chàng nghiêng một bên đầu : “ Trẫm nhiều đứa con như vậy nhưng không bảo vệ được, phải chăng là trời báo ứng?”

    Lời nói của tôi, khiến tôi nhớ tới lời hoàng hậu và chàng nói ngày đó khi tôi mất con, nội tâm đau thương và càng thêm sợ hãi : “ Hoàng hậu nương nương…. Cũng biết phải không?”

    Chàng thở dài : “Biết. Là Nghi Tu tự mình chuẩn bị thuốc.” Tiếng thở dài trầm trọng như tảng đá đặt trong lòng tôi, chàng nói : ” Trẫm thân là thiên tử, cũng có nhiều bất đắc dĩ. Nàng hiểu được sao ?”

    Tôi khóc, nhưng lại khóc oán hận thì làm sao ? Đứa con của tôi, cuối cùng cũng không thể trở lại. Hiện thực đáng sợ như vậy, từng chút từng chút để lộ trước mặt tôi, mà, sống trong một góc bóng mờ hậu cung rộng lớn. Cho dù Hoa phi lòng dạ độc ác, cô cũng thật đáng thương.

    Tôi cố nén dạ dày đang cuồn cuộn chua xót, chàng là quân vương, chàng là chủ thiên hạ. Đường thái tông còn có chòm sao Huyền Vũ thay đổi, Đường Huyên tông bị dồn ép đến cô Thái bình công chúa cùng kết giao sinh ba người con. Tôi nhất quyết dằn lại, líu lưỡi nói : “Không thể không giết.”

    Lời vừa ra khỏi miệng, đầu gối cũng đã mềm nhũn. Tôi còn có thể nói cái gì, phản bác cái gì. Đứa con Hoa phi chết sớm, chàng biết, Hoàng hậu cũng biết, nói thật Thái hậu cũng hiểu rõ sự tình. Tôi có thể có dị nghị sao ? Huống hồ lâu như vậy rồi.

    Mà tay của tôi, vị tất cũng không có dính máu tươi.

    Vừa vào cửa cung này, tôi sớm không phải là Chân Huyên được nuông chiều mà tự do phóng khoáng nữa rồi.

    Tôi cũng không phải nữ tử lương thiện thơ ngây. Tôi bức điên Tần Phương nghi, Lệ quý tần, rồi hạ lệnh treo cổ Dư thị. Tôi chưa từng trong sạch vô tội. Tôi là một người sống trong cung, muốn được sống tốt, là dẫm xuống máu người khác để xuống.

    Mà oán hận Huyền Lăng, chỉ làm bức bách tôi, ép tôi không có đường để đi, để đi, cũng không có đường thối lui.

    Chàng nói : “Huyên Huyên. Nếu trẫm không nói cho nàng biết, đứa nhỏ này chết chính là ngọn nguồn trẫm với nàng khúc mắc nhau.”

    Chàng cũng vô tâm, tôi có thể như nào ? Sau khi mất con, chàng thẳng thắn nói ra, tôi chỉ có thể tha thứ. Tha thứ cho chàng là bất đắc dĩ. Tôi lệ rơi đầy mặc, nói : “Nếu không vì Nhữ Nam vương và gia tộc Mộ Dung, Hoàng thượng không đến nỗi thế này ; mà nếu không có Hoa phi ương ngạnh độc ác, đứa con trong bụng thần thiếp cũng không đến nỗi như này.” Tôi yên lặng một chút, nói : “Hình như những ngày sắp tới, xin Hoàng thượng nhất định lấy công đạo cho thần thiếp.”

    Chàng nghiêm mặt, nghiêm nghị nói : “Nhất định là thế.”

    Tôi gắng sức gật đầu một cái, thể xác và tinh thần đều mỏi mệt. Tôi đưa tay ôm lấy chàng, rưng rưng nói : “Tứ lang !”

    Gọi chàng như vậy, là thật tâm. Rất lâu rồi tôi không có nhiệt tình gọi chàng như vậy, thần sắc chàng xúc động và kinh hỉ, cúi đầu hôn tôi, trong môi và răng chàng nóng bỏng quen thuộc mà gần gũi, ang áng như ngày xưa.

    Chàng thẳng thắn thành khẩn như vậy, đột ngột như vậy, kinh sợ mà khó có được thành thật, làm dịu ngăn cách giữa tôi và chàng ngăn cách, làm sâu thêm tình cảnh.

    Đáy lòng ảm đạm thở dài một tiếng, tôi trầm tĩnh đóng hai mắt lại.

    Giữa minh nguyệt như sương, tôi ôm chàng thật chặt, dịu dàng đáp lại chàng hơi có chút thô bạo nhiệt tình. Giờ khắc này đây đó có thể hiểu được, đủ để duy trì chúng tôi cùng tiến cùng lùi, cùng nhau trải qua rất nhiều ngày.

    Chú thích :

    Thụ tử : nghĩa là tiểu tử. Ý chỉ lời nói trong lúc tức giận mắng chửi.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 9: Gió đổi chiều
    Mùng Tám tháng Tư, đại cát. Huyền Lăng dâng sớ lên Thái miếu, cầu chúc Thái hậu phượng thế an khang, dâng lên Thái hậu tôn hiệu “Nhân Triết”, lại cộng thêm tôn hiệu được dâng lên trong ba dịp Hoàng đế kế vị, đại hôn và Thái hậu đại thọ năm mươi tuổi, toàn bộ tôn hiệu là “Chiêu Thành Khang Di Mẫn Kính Nhân Triết Thái hậu”, gọi tắt là “Chiêu Thành Thái hậu”.

    Đồng thời lại truy phong cho mẫu thân của Nhữ Nam Vương là Ngọc Ách phu nhân làm Hiền thái phi, tặng cho tên thụy Tư Túc, hiệu là Tư Túc Hiền thái phi, vào dịp tháng Sáu sẽ được dời mộ vào lăng phi tử của tiên đế. Cùng dịp ấy, các vị Thái phi trong cung cũng được tiến phong để tỏ ý khen ngợi. Thân mẫu của Kỳ Sơn Vương là Khâm Nhân Thái phi được phong làm “Khâm Nhân Thục thái phi”, đứng đầu các vị Thái phi trong hậu cung; dưỡng mẫu của Bình Sơn Vương là Trang Hòa Thái phi được phong làm “Trang Hòa Đức Thái phi”. Thư Quý thái phi đã xuất gia tu hành thì được tôn làm Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ.

    Nhữ Nam Vương có ý tôn mẫu thân của mình làm Quý thái phi, bởi tuy Tứ phi Quý, Thục, Hiền, Đức ngang hàng với nhau, nhưng xưa nay, Quý phi vẫn được coi là tôn quý nhất, và Quý thái phi tất nhiên cũng là người đứng đầu trong các Thái phi. Con nhờ mẹ mà vinh hiển, địa vị của Nhữ Nam Vương tất nhiên sẽ vì thế mà càng thêm tôn quý.

    Nhữ Nam Vương đề nghị như vậy quá nửa là vì hồi nhỏ, thân mẫu của mình vì Thư Quý phi mà thất sủng, làm liên lụy đến mình không được tiên đế coi trọng, mãi chẳng được phong vương, trong lòng rất lấy làm căm hận. Bây giờ địa vị hiển hách đến chừng này, tất nhiên không muốn trong mắt người đời, xuất thân của mình không bằng con trai của Thư Quý phi là Huyền Thanh, lại càng muốn vượt hẳn lên trưởng tử của tiên đế là Huyền Tế. Huống chi Huyền Thanh sở trường về thi từ ca phú nhưng không có ý tham gia vào việc chính trị, Huyền Tế thì lại càng tầm thường, cả ngày say khướt, chính là loại người hắn xem thường nhất.

    Hiện giờ, thân mẫu của hắn được truy phong làm Hiền thái phi, thứ nhất cùng là chính nhất phẩm như Quý, Thục, Đức thái phi, về mặt danh nghĩa cũng coi như tạm được; thứ hai có Khâm Nhân Thục thái phi ở trên áp chế, địa vị của Nhữ Nam Vương cũng không thể vượt qua Kỳ Sơn Vương; thứ ba tôn Thư Quý thái phi làm Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ còn có thể vỗ về Nhữ Nam Vương rằng Thư Quý thái phi hiện đã xuất gia rồi.

    Chỉ là mấy phong hiệu mà thôi nhưng những sự kiêng kị bên trong lại vô cùng phức tạp, khiến người ta phải lắc đầu lè lưỡi.

    Ba ngày sau, Mộ Dung Phi được khôi phục chức Hoa Phi. Gia tộc Mộ Dung vì thế mà yên phận hơn một chút.

    Vốn ngỡ rằng hậu cung sẽ vì việc này mà nổi cơn phong ba, nhưng cũng chỉ có mấy người như Điềm Tần, Thận Tần và một vài cung nhân phàn nàn một chút. Còn những người khác, trên từ Hoàng hậu, dưới tới Lăng Dung, Tào Cầm Mặc, tất cả đều coi như không có việc gì, hết sức thản nhiên.

    Hôm ấy, Hoàng hậu mời tôi đến Phượng Nghi cung ngắm hoa, vừa khéo gặp lúc thánh chỉ khôi phục ngôi vị cho Hoa Phi của Huyền Lăng truyền đến chỗ Hoàng hậu. Hoàng hậu lặng lẽ xem xong thánh chỉ, sau đó bèn lệnh cho thị nữ cất đi, hờ hững nói với tôi: “Rốt cuộc đã tới rồi!”

    Tôi cố tình làm bộ không biết, nói: “Hoàng hậu nương nương không thấy bất ngờ sao?”

    Hoàng hậu cười tủm tỉm, nói: “Chỉ là việc sớm muộn mà thôi!” Vừa nói nàng ta vừa chỉ một chậu hoa thược dược đang nở rực rỡ bên dưới cửa sổ. “Giống như hoa vậy, sớm muộn gì cũng sẽ nở.” Dứt lời nàng ta liền sai Tiễn Thu cầm một chiếc kéo bạc tới, mấy ngón tay cầm một bông hoa thược dược đỏ rực trước mặt lên, “xoẹt” một tiếng cắt đứt rồi, sau đó vứt trả cây kéo lại cho Tiễn Thu, nói: “Bông hoa này chướng mắt quá, không cần cũng được.”

    Tồi thầm chấn động, tiện tay hái một bông mẫu đơn Diêu hoàng xuống, cẩn thận cài lên búi tóc vút cao của Hoàng hậu, mỉm cười, nói: “Bông hoa này đang nở rộ, cũng hợp với thân phận của Hoàng hậu nương nương, thật là đẹp quá!”

    Hoàng hậu vừa ngó nghiêng một chút vừa mỉm cười, nói: “Đã sắp ba mươi tuổi rồi, còn gì nữa đâu mà đẹp.” Nàng ta dừng lại một chút, ra vẻ vô ý nói: “Hoa Phi ít tuổi hơn bản cung nhiều.”

    Tôi nở nụ cười nhã nhặn. “Đẹp hay không đẹp không phải ở tuổi tác mà là ở khí chất, Hoàng hậu nương nương là mẫu nghi thiên hạ, khí chất cao quý, những nữ tử xinh đẹp ít tuổi sao có thể so sánh được. Cũng giống như mẫu đơn là vua trong các loài hoa, chậu thược dược kia dù có đẹp và kiều diễm đến mấy thì cũng không cách nào sánh bằng.”

    Hoàng hậu soi gương, dán lên trán một bông hoa trân châu, ngoài miệng tuy không nói lời tán đồng nhưng sắc mặt lại lộ rõ ý tứ tán đồng, chậm rãi cất tiếng: “Quý tần càng ngày càng biết nói chuyện hơn rồi!”

    Hoàng hậu sai thị nữ chọn trâm cài tóc và bới lại tóc giúp mình, những ngón tay nhẹ nhàng lướt qua một món đồ trang sức làm bằng mã não, dường như có vẻ vô tình nói: “Nghe nói huynh trưởng của Quý tần gần đây thanh danh không được tốt lắm, vì một nữ tử chốn thanh lâu mà làm cho gia đình không được yên ổn.”

    Tôi hơi thẹn, quấn chiếc khăn một vòng quanh ngón tay, cắn răng nói: “Thần thiếp cũng nghe nói rồi, thực là chuyện xấu truyền xa ngàn dặm, một việc mất mặt như thế mà không ngờ ngay đến Hoàng hậu nương nương cũng đã nghe nói, thực là lỗi của thần thiếp.”

    Hoàng hậu xoay người nửa vòng, ôn tồn nói: “Cũng không có gì, huynh trưởng ngươi dù sao hãy còn trẻ, đang lúc đắc chí, không biết giữ gìn thanh danh, trong lúc hứng chí làm việc gì cũng không biết suy nghĩ. Có điều tẩu tẩu ngươi đã mang thai ba tháng mà còn phải chịu cơn giận như vậy, thực là đáng thương.”

    Tôi nhất thời vừa thẹn vừa giận, sắc mặt cũng thay đổi hẳn. “Chỉ hận một nỗi huynh trưởng của thần thiếp không biết kiềm chế, nữ tử thanh lâu tên gọi là Giai Nghi gì đó kia xuất thân quả thực thấp kém, vậy mà huynh ấy lại bất chấp sự phản đối của cha mẹ và việc tẩu tẩu đang có thai, nhất quyết chuộc thân cho cô ta về sắp xếp cho ở bên ngoài.” Tôi cau mày nói: “Nếu không vì cha mẹ và tẩu tẩu của thần thiếp ra sức phản đối, chỉ e huynh ấy đã mang cô ta về nhà làm thiếp rồi.”

    Hoàng hậu lắc đầu, nói: “Thế thì tồi tệ quá, vì một nữ tử như vậy mà quên mất tình nghĩa phu thê kết tóc, ơn nghĩa dưỡng dục của cha mẹ, thực chẳng ra sao cả.”

    Tôi cơ hồ muốn rơi nước mắt ngay trước mặt Hoàng hậu, cắn chặt răng, nói: “Huynh trưởng nht thời bị nữ tử đó mê hoặc, không ngờ lại không bước chân về nhà nữa. Thần thiếp đã sai người về nói với cha mẹ, tuyệt đối không được để một nữ tử như vậy vào cửa kẻo làm nhục đến môn phong của nhà họ Chân.”

    Hoàng hậu nói: “Tài đức vẹn toàn mới có thể coi là một nam tử tốt. Huynh trưởng của Quý tần tuy có tài chiến trận nhưng mặt đức hạnh đúng là có vấn đề.” Kế đó, nàng ta liền thở dài vẻ không vui. “Thực khiến đám người sau lưng Hoa Phi được dịp xem trò cười!”

    Trở lại cung nghỉ ngơi một lát, tôi cảm thấy thân thể nhức mỏi vô cùng. Suốt những ngày qua phải cật lực suy nghĩ về việc truy phong Thái phi và cùng Huyền Lăng mưu tính những chi tiết bên trong, tôi tất nhiên hao tốn rất nhiều tâm sức. Khó khăn lắm mọi chuyện mới kết thúc, tất cả đều chu toàn, tôi rốt cuộc đã có thể thở phào mà nghỉ ngơi một chút. Nhưng những cơn bão táp ngày sau ắt sẽ càng thêm dữ dội, chẳng hề vì thế mà nhẹ nhàng đi nửa phần.

    Mấy người Cận Tịch cũng biết thời gian qua tôi đã phải vất vả nhiều, bèn đốt một lò An tức hương có tác dụng an thần để tôi dễ ngủ hơn, đồng thời chỉ lưu lại một mình Lưu Chu ở bên hầu hạ.

    Vừa mới mơ màng chìm vào giấc ngủ, tôi đã nghe Lưu Chu nôn nóng cất tiếng thúc giục bên tai: “Nương nương, cung Thái hậu sai người đến mời nương nương qua nói chuyện.”

    Vừa nghe thấy hai chữ “Thái hậu”, tôi lập tức giật mình choàng tỉnh, hỏi: “Có chuyện gì sao?”

    Lưu Chu thưa: “Vị công công tới chuyển lời không nói gì, chỉ mời nương nương mau qua đó.”

    Tôi xưa nay vẫn luôn kính trọng Thái hậu, nghe vậy liền không dám chậm trễ chút nào, một mặt sai người chuẩn bị kiệu, một mặt gọi người tới giúp mình trang điểm thay quần áo, sau đó vội vã đi ngay.

    Trong điện Thái hậu có mùi trầm hương bình lặng như nước, từng làn khói nhẹ vấn vít không tan, khiến người ta có cảm giác đang ở ngoài cõi tục. Ánh dương độ giữa trưa không sáng quá, bầu trời mang màu xanh lam tươi mát sau một trận mưa phùn, khiến người ta cảm thấy vô cùng thư thái, dễ chịu.

    Trong điện rất tịch mịch, nhìn ra ngoài qua tấm rèm cửa sổ mỏng màu xanh lục, những bông hoa xuân đang nở rực rỡ cũng như thêm phần ngoan ngoãn, ngay đến ánh dương màu vàng kim cũng trở nên mông lung, như thể bị ngăn cách bởi một lớp sương mù thăm thẳm.

    Thái hậu có khí sắc khá tốt, đang ngồi tựa vào chiếc sạp quý phi dài mạ bạc kê ngay sát cửa sổ, chậm rãi uống từng ngụm thuốc từ tay Tôn cô cô.

    Tôi cung kính thỉnh an, Thái hậu bảo tôi đứng dậy và ban cho ngồi, nói: “Cũng khá lâu chưa nói chuyện với ngươi rồi, gần đây có làm được việc gì không?”

    Tôi thưa: “Cũng không có gì, thần thiếp chẳng qua chỉ làm mấy chuyện vặt vãnh để giết thời gian thôi.”

    Thái hậu chẳng buồn ngẩng lên, nói: “Vậy hãy nói thử xem là những việc vặt vãnh gì nào, ai gia muốn nghe cho đỡ buồn.” Thế là tôi bèn chọn một số việc thú vị để kể. Thái hậu nở nụ cười như có như không, dang vẻ như đang lắng nghe, một tay đón lấy cốc nước Tôn cô cô đưa tới để súc miệng, cau mày nói: “Đắng quá!”

    Lời còn chưa dứt, phía sau bức bình phong điêu khắc bằng gỗ ô đàn trong điện xuất hiện một tà váy màu xanh ngọc, bất ngờ lại là My Trang. My Trang liếc mắt nhìn tôi, cũng không nói nhiều, chỉ bưng một chiếc khay bằng sứ trắng trong tay, trên khay có đặt mấy quả sơn tra được tẩm ướp đỏ mọng. Nàng ta mỉm cười đi tới trước mặt Thái hậu, thưa: “Đây là sơn tra mới hái hôm nay, thần thiếp sai người làm ngọt một chút, Thái hậu vừa uống xong, ăn nó là hợp nhất rồi!”

    Trên mặt Thái hậu thoáng lộ rõ nét tươi cười. “Coi như con nhóc ngươi có lòng hiếu thảo.” Vừa nói bà vừa nhón một quả lên ăn, gật đầu, nói: “Đúng là không tệ.”

    My Trang cúi đầu cười khẽ, dáng vẻ nền nã nhún nhường. “Thái hậu thích là được, thần thiếp chỉ nghĩ thuốc vốn đắng, nếu ăn thêm thứ gì ngọt quá thì thành ra lại khó chịu, chi bằng dùng thứ vừa chua vừa ngọt là hợp nhất.”

    Thái hậu gật đầu mỉm cười, hết sức tán đồng, sau đó mới quay sang nhìn tôi, cất giọng không chậm hỏi: “Hoàn Quý tần, ngươi đã biết tội chưa?”

    Căn phòng vốn ngợp đầy những lời nói hiền từ và chìm trong sự yên bình đột nhiên vang lên một câu nói như vậy, tôi nghe mà trái tim bất giác nhảy dựng lên, nhưng lại không biết đã phạm lỗi gì, hoang mang quỳ xuống, nói: “Thần thiếp thật tình không biết, xin Thái hậu chỉ dạy.”

    Ánh mắt Thái hậu cực kỳ sắc bén, chiếu thẳng tới khiến tôi không dám ngẩng lên, thầm thấp thỏm. Thái hậu hơi nheo mặt, lạnh lùng buông ra một câu: “Ngươi lớn gan thật, thân là phi tần mà không ngờ lại dám can dự vào việc triều chính.”

    My Trang đứng một bên, nghe Thái hậu nói chuyện với thần sắc như vậy thì không khỏi cả kinh, sắc mặt trở nên trắng bệch, đến chiếc khay sứ trong tay cũng không cầm chắc nổi, làm mấy quả sơn tra rơi xuống đất, lăn đi xa tít, bắn ra những đốm màu đỏ đầy trên mặt sàn.

    Thái hậu đưa mắt liếc nàng ta, nói: “Ai gia đang hỏi nàng ta, không ngờ ngươi lại cuống lên trước.”

    Tôi nhất thời bấn loạn, không biết phải trả lời thế nào, vội phủ phục xuống, khấu đầu thưa: “Thần thiếp không hiểu tại sao Thái hậu lại nói như vậy, thần thiếp quả thực không dám phạm vào tử tội này.”

    Thái hậu ngồi thẳng người dậy, tuy không hề tỏ ra dữ dằn nhưng vẻ nghiêm túc nơi khóe mắt lại khiến người ta không rét mà run. Bà bình thản nói: “Ai gia cho phép ngươi tự nói, việc truy phong Thái phi ngươi có tham gia bao nhiêu phần?”

    Tôi dập đầu một cái rồi mới thưa: “Lời của Thái hậu thật khiến thần thiếp sợ hãi tột cùng. Thần thiếp dù có trẻ người non dạ đến mấy thì cũng biết rằng phi tần chốn hậu cung không được can dự vào việc triều chính, đây là lời di huấn mà lão tổ tông để lại, thần thiếp tuyệt đối không dám làm trái. Hoàng thượng là bậc quân chủ thánh minh, việc truy phong Thái phi trong lòng sớm đã có tính toán, thần thiếp há có thể làm ảnh hưởng tới được. Điều thần thiếp có thể làm chỉ là khuyên Hoàng thượng đừng vì việc triều chính mà hao tâm tổn lực quá độ, nếu nói tới ‘tham gia’ thì cũng chỉ là góp ý với Hoàng thượng một chút về phong hiệu của mấy vị Thái phi, sau đó đưa lên cho Hoàng hậu và Thái hậu quyết định.” Tôi ngẩng đầu nhìn Thái hậu, nói: “Thần thiếp ngu muội, cho rằng truy phong Thái phi chỉ là việc của hậu cung, do đó mới dám mạo muội nói ra đôi lời. Nếu biết đó là việc triều chính, thần thiếp tuyệt đối không dám dính dáng đến chút nào cả.” Nói xong lại vội vàng cúi đầu xuống.

    Thái hậu thoáng trầm ngâm, trong mắt lóe lên ánh tinh quang, dường như có thể biến tôi thành một người trong suốt không giấu giếm được chuyện gì, chậm rãi nói: “Dù ngươi không có ý tham gia vào việc triều chính nhưng ngươi dám nói trong việc này ngươi không có chút tư tâm nào không?”

    Nói xong những lời vừa nãy, tâm trạng tôi đã bình tĩnh hơn nhiều, biết rằng biện bạch quá nhiều sẽ thành ra không hay, vì vậy bèn nói: “Thái hậu minh giám, việc truy phong Thái phi vốn không có bao nhiêu quan hệ lợi hại với thần thiếp.” Thoáng dừng lại, tôi ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt Thái hậu, nói: “Nhưng nói đến tư tâm, thần thiếp quả thực có một chút.”

    Tôi thấy Thái hậu chỉ lắng nghe, không hề tỏ ý trách móc, bèn dần yên tâm hơn phần nào. “Thần thiếp ở sâu trong cung, tuy không để tâm tới những việc bên ngoài, nhưng thỉnh thoảng cũng nghe được một số lời bàn tán mà mọi người xung quanh nói. Hoàng thượng là vua một nước, thường xuyên lo lắng việc triều chính, quên ăn quên ngủ. Thần thiếp may mắn được Hoàng thượng sủng hạnh, có thể thường xuyên hầu hạ kề bên, chỉ mong Hoàng thượng việc gì cũng được như ý, luôn nở nụ cười.” Suy nghĩ mấy bận, rốt cuộc tôi vẫn cất tiếng: “Nhưng có lúc trời lại chẳng chiều lòng người.”

    Thái hậu là mẹ ruột của Huyền Lăng, còn từng chấp chưởng triều chính. Có một số lời, có một số chuyện, quả thực không cần thiết phải giấu giếm bà ta. Thái hậu suy nghĩ một chút rồi nói: “Đâu phải trời không chiều lòng người, chỉ e có một số kẻ muốn làm trái ý trời mà thôi!”

    Tôi quỳ dưới ánh mặt trời dìu dịu, nơi sống lưng thấp thoáng truyền đến cảm giác ngứa ngáy, kèm theo đó là sự thấp thỏm bất an. Tôi thấp giọng nói: “Thái hậu nói rất phải. Nhưng thần thiếp biết, Hoàng thượng là con của trời cao, ắt sẽ được trời cao phù hộ. Thần thiếp không dám, cũng không thể tham gia vào việc triều chính, chỉ có thể cố gắng lo cho Hoàng thượng về vấn đề ăn uống ngủ nghỉ mà thôi. Nếu nói có tư tâm thì đó cũng chỉ là một chút tư tâm đáng xấu hổ của thần thiếp, nhưng hôm nay Thái hậu đã hỏi tới, thần thiếp đành thành thực trả lời. Thần thiếp hy vọng Hoàng thượng có thể bình an muôn tuổi, còn mình thì được sủng hạnh suốt đời.”

    Thái hậu nghe xong những lời giải thích của tôi, sắc mặt thoáng dãn ra, tiện tay khẽ vén mái tóc được buông xõa sau đầu, hòa nhã nói: “Chút tư tâm ấy các phi tần ở hậu cung ai mà không có? Thôi, ngươi đứng dậy đi!”

    Tới lúc này, tôi mới giống như được đại xá, vội chỉnh sửa quần áo một chút rồi đứng dậy, cung kính cúi đầu bước qua một bên. Thái hậu vuốt nhẹ chiếc chăn bông mỏng đắp trên người, khẽ thở dài một tiếng, nói: “Tư tâm của ngươi kỳ thực người nào cũng có. Có Hoàng thượng thì mới có các ngươi, Hoàng thượng còn trị vì, các ngươi ở trong cung dù thất sủng hay đắc sủng thì ít nhiều gì cũng còn có hy vọng. Nếu Hoàng thượng không còn nữa, Hoàng hậu tất nhiên khỏi cần phải nói, sẽ trở thành Thái hậu tôn quý, cho dù là Tào Tiệp dư và Hân Quý tần thì ít nhiều gì cũng còn có một đứa con gái để mà nương tựa. Nhưng như ngươi và My Nhi bây giờ, dù có phong quang đến mấy thì sau này cũng chỉ có thể làm một Thái tần cô độc, ngay đến danh phận Thái phi cũng không thể trông mong được. Cái danh Thái tần tuy rằng không tệ nhưng đến khi già chẳng có ai nương tựa thì thật thê thảm biết bao, nói trắng ra thì chỉ là ngồi chờ chết mà thôi. Cho nên mọi niềm hy vọng của các ngươi đều nằm cả trên người Hoàng thượng.” Thái hậu nói xong, bản thân cũng có chút thương cảm, bèn ngoảnh đầu qua một bên, khẽ ho mấy tiếng.

    My Trang ngoài miệng tuy đáp “vâng” nhưng cũng ngoảnh mặt đi, ngẩn ngơ nhìn ra ngoài cửa sổ, dường như có chút hụt hẫng. Thái hậu đưa mắt liếc tỷ ấy, nói: “My Nhi, tuy ngươi có lòng hiếu thảo với ai gia, nhưng thứ tâm tư này cũng nên dùng một chút với Hoàng thượng. Tuy không nói gì tới ân sủng, nhưng bây giờ ngươi còn thua cả con bé Điềm Tần kia. Tuổi còn trẻ mà cứ suốt ngày ăn mặc mộc mạc như vậy thực không hay chút nào, đến ai gia bây giờ còn chịu mặc mấy thứ đồ sặc sỡ, vậy mà ngươi lại không chịu. Cả ngày kề cận bên bà già ta đây, rốt cuộc cũng chẳng có gì thú vị… Ngươi dù sao cũng phải suy nghĩ cho bản thân một chút.”

    Lối ăn mặc của My Trang quả thực không phù hợp với thân phận của tỷ ấy, quá mức mộc mạc, bên trên là một chiếc áo the mỏng có nền màu bạc, ống tay áo bó sát vào cổ tay, trên mặt vải chỉ thêu mấy hình dây tử đằng màu xanh biếc, bên dưới là một chiếc váy xanh màu ngọc không có chút hoa văn nào, dài đến mắt cá chân, cũng không hề đeo những thứ đồ trang sức như túi thơm hay ngọc bội. Bây giờ đang là mùa xuân, những nữ tử trong cung đều thích cài hoa tươi lên búi tóc, nhưng trên mái tóc của My Trang, đến một cây trâm ngọc xa hoa cũng chẳng có chứ đừng nói gì tới hoa tươi. Mái tóc đen tuyền của tỷ ấy được búi gọn lại sau đầu, chỉ được cố định bằng một cây trâm bạc có khảm một viên mã não đỏ sậm, coi như đồ trang sức. Lối ăn mặc như vậy quả thực là quá đơn giản, ngay đến Tôn cô cô khá có địa vị trong cung Thái hậu nhìn trông cũng rực rỡ hơn tỷ ấy. My Trang hơi cúi đầu. “Thái hậu nói vậy nghe cứ như là thần thiếp không muốn gần gũi Hoàng thượng, mà thứ nhất Thái hậu an khang chính là tâm nguyện của Hoàng thượng, thần thiếp đương nhiên càng cần hiếu kính Thái hậu rồi; thứ hai, mấy vị muội muội đã hầu hạ Hoàng thượng rất tốt, thiếu thần thiếp cũng không sao.” My Trang khẽ mỉm cười, nói tiếp: “Thần thiếp vốn không giỏi trang điểm, sao có thể vừa mắt Thái hậu được, chỉ mong hôm nào Thái hậu có thời gian rảnh hãy chỉ dạy cho thần thiếp một chút. Thần thiếp ở chỗ Thái hậu thu được rất nhiều lợi ích, có đuổi cũng không đuổi đi được đâu.”

    Thái hậu cười, nói: “Ai gia vốn thấy nha đầu ngươi điềm đạm chín chắn, không ngờ bây giờ cũng biết ăn nói như vậy rồi. Có ngươi bầu bạn bên ai gia, lại có y thuật của Ôn thái y, thân thể ai gia sao có thể không khỏe mạnh được chứ!”

    My Trang tươi cười, nói: “Đó đều là công lao của Ôn thái y, thần thiếp chẳng qua chỉ ở bên phụ giúp một chút mà thôi, thực chẳng có tác dụng gì mấy.”

    Thái hậu nói: “Đợi lát nữa hãy ở lại dùng bữa tối với ai gia, sau đó thì về cũng được, cả ngày quanh quẩn ở đây cũng chẳng có gì hay ho.”

    My Trang nói: “Ôn thái y đã nói rồi, đợi sau bữa tối sẽ tới bắt mạch cho Thái hậu lần nữa, nếu tất cả đều ổn thì lượng thuốc có thể giảm đi phần nào. Thần thiếp muốn ở lại đây nghe xem Ôn thái y nói thế nào, như thế cũng tiện nhắc nhở những tiểu cung nữ chuyên sắc thuốc kia, thuốc của Thái hậu quyết không thể có chút sơ suất nào.”

    Thái hậu gật đầu tỏ ý hài lòng. “Ngươi lúc nào cũng chu đáo hơn người khác.” Nói rồi bà ta ngoảnh qua nhìn tôi, chậm rãi cất tiếng: “Nghe Hoàng thượng nói, việc sớm khôi phục lại ngôi vị cho Hoa Phi là chủ ý của ngươi?”

    Tôi nghe thế thì thầm kinh hãi, không biết Thái hậu rốt cuộc có dụng ý gì, chỉ đành bấm bụng đáp: “Vâng.” Dứt lời, tôi lại không kìm được đưa mắt nhìn My Trang, thấy sắc mặt tỷ ấy hơi biến đổi, ánh mắt sắc bén đâm thẳng vào mặt tôi, bên trong là vẻ vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Tôi buồn bã cúi đầu, tỷ ấy rốt cuộc vẫn oán trách tôi.
    Thái hậu cau mày, nghi hoặc hỏi: “Ngươi chịu sao?”

    Tôi đáp với giọng khẩn thiết: “Thái hậu anh minh. Vừa rồi Thái hậu đã nói có một số người muốn làm trái ý trời, thần thiếp tuy ngu độn nhưng cũng biết Thái hậu muốn nhắc đến ai. Xin Thái hậu minh giám, trong thế cuộc bây giờ, lòng người ở tiền triều cần được vỗ về, nơi hậu cung cũng thế. Thần thiếp không thể vì ân oán cá nhân mà làm ảnh hưởng đến đại cục.” Tôi cúi xuống, nói tiếp: “Trong chuyện này dù sao cũng có người phải chịu ấm ức, thần thiếp tình nguyện làm người ấy.”

    Thái hậu im lặng trong chốc lát, sau đó liền lộ rõ nét vui mừng, gọi tôi lại, kéo tay tôi nói: “Tốt lắm, ai gia thực không ngờ ngươi lại có bụng dạ rộng rãi như vậy. Chẳng trách Hoàng thượng cưng chiều ngươi như thế, còn cho phép ngươi vào ngự thư phòng bầu bạn.”

    Tôi vội vàng quỳ xuống. “Thái hậu quá lời rồi, thần thiếp thực không dám nhận.”

    Thái hậu lệnh cho tôi ngồi trước mặt bà ta, nói: “Ai gia nghe Hoàng hậu nói có ngươi bầu bạn với Hoàng thượng trong ngự thư phòng hết sức ổn thỏa, vốn còn không yên tâm. Ngự thư phòng há lại là nơi các hậu phi có thể tùy tiện ra vào, mà ngươi xưa nay lại luôn thông minh, lanh lợi. Nếu sự thông minh này không được dùng vào con đường chính đáng, hoặc là một mực xúi giục Hoàng thượng xử lý quốc sự theo sự yêu ghét cá nhân, trở thành một kẻ hồng nhan họa thủy thì ai gia quyết không dung tha cho ngươi.”

    Tôi vội cúi đầu, cung kính nói: “Thần thiếp không dám!”

    Thái hậu nói: “Ai gia chẳng qua cũng chỉ lo lắng vậy thôi. Hôm nay nói chuyện với ngươi, thấy ngươi quả có bụng dạ và kiến thức, đúng là nhãn quang của Hoàng thượng không tệ. Các cung nữ, thái giám trong ngự thư phòng dù sao cũng không thể hiểu được lòng Hoàng thượng như ngươi, ngươi hãy tận tâm mà hầu hạ Hoàng thượng… Chỉ có điều phải nhớ, không được tùy tiện bàn việc quốc sự, cũng không được tham gia vào việc triều chính. Nếu không, dù ai gia có thể tha cho ngươi, liệt tổ liệt tông cũng không tha cho ngươi được.”

    Tôi hơi cắn môi, nhún nhường nói: “Thái hậu dạy dỗ rất phải, thần thiếp xin ghi nhớ trong lòng. Có điều, tạm chưa nói tới việc thần thiếp có bản lĩnh can dự vào việc triều chính, bên trên có Thái hậu, bên dưới có bá quan văn võ, Hoàng thượng lại anh minh quyết đoán, thần thiếp làm gì còn cơ hội mà can dự vào những việc không dành cho mình. Thần thiếp tuổi trẻ không hiểu chuyện, cũng chưa từng trải qua việc lớn gì, cử chỉ lời nói không tránh khỏi có chút sơ sót, mong Thái hậu và Hoàng hậu chỉ bảo.”

    Thái hậu hơi ngước mắt lên, nói: “Ngươi tuy vào cung đã được ba năm, nhưng nói đến cùng cũng chỉ là một nha đầu mới mười tám tuổi, có được phong thái và bụng dạ như vậy quả là không tệ. Hoàng thượng có ngươi ở bên, ai gia thực sự rất yên tâm. Ngươi hãy cố gắng hầu hạ Hoàng thượng cho tốt, nếu sớm ngày sinh nở được thì không còn gì hay hơn nữa rồi.”

    Tôi yên tâm hơn một chút, trầm giọng nói: “Tạ ơn Thái hậu!”

    Thái hậu thoáng lộ vẻ mệt mỏi, lại tựa người vào chiếc gối mềm. Tôi thấy vậy liền hiểu ý, đi tới bên cạnh chiếc tủ ở góc điện, mở nắp hộp đường đặt giữa chiếc khay khắc hoa văn hình hai con rồng ra, xúc lấy nửa thìa đường trắng cho vào cốc nước của Thái hậu, nói: “Thái hậu dạy dỗ thần thiếp hồi lâu đã vất vả rồi, hãy uống một ngụm nước cho mát họng.”

    Thái hậu mỉm cười uống nước, cất giọng hiền từ: “My Nhi tính tình vững vàng, chín chắn, ngươi thì thông minh, nhanh nhẹn. Sau khi Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời, bên cạnh Hoàng thượng chẳng có ai đáng để tin cậy. Nếu các ngươi có thể dốc lòng dốc sức hầu hạ kề bên, không những Hoàng hậu có thể nhẹ nhõm hơn nhiều mà Hoàng thượng cũng không còn mối lo ở phía sau nữa.”

    My Trang đứng sau lưng Thái hậu, vẫn luôn hờ hững nhìn tôi, nghe Thái hậu nói vậy mới khẽ cười, nói: “Thái hậu thực đã xem trọng thần thiếp quá rồi!”

    Thái hậu nằm dưới ánh nắng dìu dịu đã gần nửa canh giờ, dần cảm thấy buồn ngủ, liền uể oải nói: “Đến giờ ai gia ngủ trưa rồi, các ngươi hãy kiếm nơi nào đó đi dạo một chút đi.”

    Tôi và My Trang vội vàng đứng dậy cáo từ. Thái hậu nhắm mắt được một lát, chợt cất tiếng gọi tôi lại: “Việc truy phong Thái phi làm như vậy quả là rất ổn thỏa, mọi mặt đều chu toàn. Nếu đổi lại là ai gia đưa ra chủ ý, có quá nửa cũng sẽ như vậy. Hoàng thượng xưa nay tính tình luôn có chút bộp chộp, suy nghĩ mọi việc đều không chu đáo, cần có một người ở bên giúp sức. Nhưng nếu tất cả đều là chủ ý của một mình ngươi, vậy thì cái chủ ý đó không khỏi lớn quá rồi!”

    Tôi đang tính xem sau khi ra ngoài nên giải thích thế nào với My Trang, nghe Thái hậu đột nhiên nói vậy, trái tim bất giác nhảy dựng lên, thấp thỏm không yên. Nụ cười cố gắng duy trì trên mặt bất giác trở nên hơi gượng gạo, từ hai gò má truyền tới cảm giác tê rần, tôi nói: “Thần thiếp đâu có hiểu được nhiều chuyện như vậy, chỉ thỉnh thoảng mới góp ý được đôi điều thôi!”

    Thái hậu nở nụ cười cảm khái. “Cổ nhân có câu ‘nữ tử vô tài chính là đức’, nhưng ai gia cảm thấy không đúng lắm; nhưng nếu tài hoa quá, rốt cuộc cũng khó tránh khỏi bạc mệnh, thật vô cùng đáng tiếc. Có tài mà biết tiến thoái, gộp đủ cả phúc đức, vậy mới là hiếm có. Dù sao hậu cung cũng không phải nơi bình thường.” Giọng nói của Thái hậu mang đầy ý vị sâu xa: “Trong hậu cung này, tuy các ngươi đều chỉ là hạng nữ lưu, nhưng mỗi tiếng khóc, nụ cười đều có thể gây ra phong ba bão táp ở tiền triều, do vậy từng lời nói, cử chỉ nhất định phải thật cẩn thận.”

    Tôi gật đầu, không nói gì, tỉ mỉ nghiền ngẫm ý tứ bên trong. Thái hậu lại nói: “Ngươi là người hiểu chuyện, ai gia rất thích. Nếu có thời gian rảnh hãy thường xuyên tới đây chép kinh Phật cho ai gia.”

    Tôi khẽ đáp “vâng” một tiếng rồi cáo lui, vội vã bước ra khỏi Di Ninh cung của Thái hậu, tới lúc này mới cảm thấy cả thể xác và tinh thần đều mệt mỏi tột cùng, mồ hôi lấm tấm trên trán, một lúc sau mới phát hiện mà đưa tay lên lau.

    Đi ra ngoài, tôi thấy Hoán Bích đang đợi sẵn, nhưng lại không thấy My Trang đâu, không khỏi thầm nôn nóng, bèn hỏi: “Có nhìn thấy My Trang tiểu chủ không?”

    Hoán Bích đáp: “Dạ có thấy, tiểu chủ dẫn theo cung nữ đến nhà bếp chuẩn bị đồ điểm tâm cho Thái hậu rồi.”

    Tôi biết mình nhất thời khó có thể gặp được tỷ ấy, bèn ngồi kiệu quay trở lại Đường Lê cung.

    Đến bên bờ tây của hồ Thái Dịch, tôi vừa khéo gặp Tào Tiệp dư đang dẫn theo thị nữ bế Ôn Nghi Công chúa hái mấy cành liễu trêu đùa lũ cá chép vàng bên cầu, cất tiếng cười vang. Nhìn thấy kiệu của tôi đi ngang qua, nàng ta vội vàng đứng dậy thỉnh an. Tôi bảo nàng ta đứng dậy, đoạn ghé người ra ngoài kiệu, cười nói: “Tiệp dư đúng là có nhã hứng thật.”

    Nàng ta cũng cười, trong ánh mắt nhìn về phía Ôn Nghi Công chúa tràn ngập vẻ yêu thương. “Rảnh rỗi không có việc gì làm, Ôn Nghi liền đòi ra ngoài chơi. Con nhóc nghịch ngợm này thực khiến thần thiếp đau đầu vô cùng.”

    Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Tiệp dư ngày ngày có thể ‘đau đầu’ như vậy là điều mà người khác mong còn chẳng được đấy!” Tôi chăm chú nhìn Ôn Nghi, cô bé cũng sắp ba tuổi rồi, trông rất ngây thơ, non nớt, mặt mũi như tranh vẽ, miệng cất tiếng ê ê a a không ngừng. Cô bé trước giờ chưa được gặp tôi mấy, có vẻ hơi sợ người lạ, nhưng cũng không la hét khóc lóc, chỉ mở to cặp mắt tròn xoe đen láy ra nhìn tôi vẻ tò mò, trông hết sức đáng yêu.

    Cô bé vốn được Tào Tiệp dư bế trong lòng, nhìn thấy tôi cười tủm tỉm nhìn qua thì cũng biết rằng tôi thích nó, thế là chợt nhếch miệng, cất tiếng cười khoan khoái, còn dang rộng hai tay đòi tôi bế. Tôi cũng khá bất ngờ, lại còn đang ngồi trên kiệu nhưng nhìn thấy bộ dạng đáng yêu kia của cô bé thì bất giác cảm thấy yêu thích, bèn bước chân xuống kiệu.

    Tào Tiệp dư thấy Ôn Nghi dang tay đòi tôi bế thì vội thấp giọng ngăn cản: “Không được vô lễ với nương nương, nghịch ngợm quá!”

    Tôi cười, nói: “Trẻ con không sợ người lạ mới thú vị chứ, Tiệp dư sao phải trách cứ làm gì.” Dứt lời tôi bèn đưa tay tới ôm cô bé vào lòng, gạt nhẹ mấy cọng tóc đầm đìa mồ hôi trước trán cô bé một cách cưng nựng. Ôn Nghi tuy còn ít tuổi nhưng vẫn có thể phân biệt được người khác có thật lòng yêu thích mình hay không, do đó, nó tỏ ra hết sức thân mật, tựa đầu vào vai tôi, bờ má non nớt khẽ cọ vào cổ tôi, một tay ôm lấy tôi, tay còn lại thì nghịch ngợm cây kim mạ vàng cài trên cúc áo tôi.

    Tào Tiệp dư đứng bên cạnh cười tủm tỉm, nói: “Ôn Nghi rất thích nương nương đấy!” Vừa nói vừa ghé tới sát Ôn Nghi. “Mau gọi Hoàn mẫu phi đi.”

    Nhưng Ôn Nghi lại không chịu gọi, chỉ cúi đầu ra vẻ thẹn thùng, thân thể lắc qua lắc lại trên người tôi như một cây kẹo kéo. Tào Tiệp dư thấy cô bé ngượng nghịu liền ngoảnh lại gọi nhũ mẫu: “Mau bế Công chúa về đi, làm nhăn hết xiêm y của nương nương rồi kìa!” Đồng thời nàng ta mau lẹ ghé tai tôi, khẽ nói: “Tần thiếp ở đây đợi nương nương lâu rồi!”

    Tôi hiểu ý, biết nàng ta có chuyện muốn tìm mình, bèn tỏ vẻ bình thản buông Ôn Nghi ra, một tay đưa lên gỡ mấy chiếc kim mạ vàng trên cúc áo xuống, đặt tay nhũ mẫu. “Chỉ là mấy thứ đồ không đáng tiền thôi, giữ lại cho Công chúa chơi đi.”

    Nhũ mẫu nhất thời không dám nhận, đưa mắt liếc nhìn sắc mặt Tào Tiệp dư, thấy nàng ta mỉm cười thì mới vội vàng nhận lấy và cất lời cảm tạ.

    Tôi nói: “Tiết trời đang đẹp, bản cung chuẩn bị tới Nghênh Xuân uyển đi dạo một chút, cáo từ!”

    Sau khi tới Nghênh Xuân uyển, tôi chỉ giữ Cận Tịch lại cùng tản bộ. Lúc này sắc xuân đang thắm, hoa nghênh xuân vốn nở sớm nên đã tàn lụi gần hết, do đó có rất ít người tới đây ngắm nghía đi lại, chính là một nơi thanh tịnh có thể dùng để nói chuyện. Quả nhiên chẳng bao lâu sau, Tào Tiệp dư đã một mình đi tới.

    Tôi hái hai bông nghênh xuân mân mê trong tay, hờ hững cất tiếng hỏi: “Tào tỷ tỷ có chuyện gì muốn gặp bản cung vậy?”

    Nàng ta thấp giọng đáp: “Địa vị của Hoa Phi được khôi phục, hôm qua đã triệu tần thiếp tới Mật Tú cung.”

    Tôi nghe thế thì chợt rúng động nhưng vẫn mỉm cười, dịu giọng nói: “Như thế quả là rất tốt. Hoa Phi nương nương xưa nay vẫn luôn qua lại với tỷ, bây giờ địa vị đã được khôi phục, tỷ cũng nên đi chúc mừng.”

    Nàng ta mặt không đổi sắc, chỉ nói: “Tần thiếp sớm đã cho người đưa quà mừng tới rồi!” Nàng ta đưa mắt nhìn tôi, nói tiếp: “Có điều lần này Hoa Phi nương nương triệu tần thiếp tới là để hỏi trong quãng thời gian mình không ra khỏi cửa, nương nương đã có những hành động thế nào.”

    Tôi thoáng ngẩn người rồi chậm rãi vuốt ve hai bông hoa trong tay, ung dung nói: “Tào tỷ tỷ là người thông minh, tất nhiên biết cách đối đáp cho hợp lý. Huống chi bất kể đối đáp thế nào thì đó cũng đều là tính toán riêng của Tào tỷ tỷ.” Tôi ngấm ngầm đổi giọng, nở nụ cười tươi với nàng ta. “Thực ra Hoa Phi nương nương có nói thế nào thì cũng là chủ nhân cũ của Tào tỷ tỷ, tuy nàng ta đối xử với tỷ tỷ và Công chúa có phần hơi bạc bẽo, nhưng tốt xấu gì cũng từng nâng đỡ tỷ tỷ, mà gia thế và địa vị lại đều hơn xa bản cung. Tào tỷ tỷ đi lại gần gũi với Hoa Phi cũng là lẽ thường tình, huống chi bây giờ địa vị của nàng ta đã được khôi phục, Hoàng thượng cũng không có lý do nào lại không sủng ái nàng ta.”

    Tào Tiệp dư hơi cau mày, rất nhanh đã mím môi cười, nói: “Nương nương hà tất phải chơi trò đánh đố với tần thiếp. Tần thiếp tuy không thông minh nhưng cũng biết việc nàng ta khôi phục địa vị và đắc sủng chỉ là nhất thời, cũng giống như bông hoa quỳnh trong ngày hè vậy, dù gì cũng chỉ như cây nỏ mạnh đã hết đà thôi!” Dừng một chút, nàng ta nói tiếp: “Tần thiếp và Công chúa muốn được yên thân, tất nhiên sẽ không mạo hiểm.”

    Tôi chăm chú nhìn nàng ta một lát, sau đó nói: “Tào tỷ tỷ tâm tư nhạy bén, phản ứng cực nhanh, người bình thường sao có thể sánh nổi. Có điều bản cung cũng không hy vọng tình cảm giữa Tào tỷ tỷ và Hoa Phi nương nương trở nên phai nhạt.”

    Tào Tiệp dư mím môi nở nụ cười tươi rạng rỡ, dải tua bên dưới cây kẹp tóc vàng có đính con ve sầu ngọc bích khẽ đung đưa qua lại. “Tần thiếp đã quyết định giao phó bản thân và Công chúa cho nương nương, tất nhiên sẽ hoàn toàn vâng lệnh nương nương, sao còn ngả về phía nàng ta được. Có điều lời dặn của nương nương tần thiếp hiểu rõ, nhất định sẽ không làm nương nương thất vọng.”

    Tôi khẽ cười, nói: “Tào tỷ tỷ biết tiến biết lui, bản cung tất nhiên hoàn toàn yên tâm. Hoa Phi nương nương đã thích thăm dò động tĩnh của bản cung, vậy bản cung chỉ đành dùng chiêu gậy ông đập lưng ông thôi.” Dừng một chút, tôi hỏi: “Lần này Hoa Phi nương nương phục hồi địa vị, lại được Hoàng thượng sủng hạnh hơn, bản thân nàng ta có suy nghĩ thế nào?”

    Tào Tiệp dư thoáng lộ vẻ khinh miệt, khái quát bằng một câu ngắn gọn: “Sung sướng đắm mình trong niềm vui, nhưng cũng thường xuyên lo thất sủng lần nữa.” Nàng ta đưa mắt liếc qua. “Nhưng vì chuyện trước đó, lại thêm việc nghe nói tới biến cố của Tần Phương nghi và Lục Thuận nghi, do đó đã sinh lòng kiêng dè nương nương.”

    Tôi không hề để bụng, trong giọng nói thoáng mang theo chút căm hận: “Nàng ta sớm đã coi ta là tử địch, chẳng phải mới bắt đầu từ bây giờ. Đương nhiên, bản cung cũng vậy.”

    Tào Tiệp dư nói: “Nương nương tất nhiên có cách ứng phó với nàng ta, tần thiếp chỉ dốc chút sức mọn của mình mà thôi. Nhưng có việc này không thể không nói, nương nương và tần thiếp vốn không có mối quan hệ lợi hại trực tiếp với nhau, nói khó nghe một chút thì chẳng qua là hợp nhau vì lợi, ngày sau lợi hết ắt sẽ mỗi người mỗi ngả, thần thiếp hèn kém, tất nhiên không thể cự lại nương nương, do đó chỉ e khó mà yên tâm trợ giúp nương nương được.”

    Tôi và nàng ta nhìn nhau cười khẽ, đều hiểu rõ tính toán trong lòng đối phương. “Tào tỷ tỷ quả nhiên sảng khoái, điều tỷ lo lắng cũng là việc bản cung băn khoăn. Bản cung đến bây giờ vẫn chưa có con cái, Ôn Nghi Công chúa xinh xắn, đáng yêu, bản cung có ý sau khi việc này thành rồi sẽ nhận nó làm nghĩa nữ, như vậy hai bên đều có chỗ mà nương tựa. Tào tỷ tỷ thấy thế nào?”

    Tào Tiệp dư cười vui vẻ, hái một nhành nghênh xuân quấn quanh cổ tay làm thành vòng tay. “Như vậy cả hai chúng ta đều có thể yên tâm rồi!” Nàng ta ngoảnh đầu nhìn sắc vàng xanh ngợp khắp khu vườn, khẽ nói tiếp: “Nương nương tiền đồ vô lượng, có một mẫu phi như vậy chiếu cố, ấy là cái phúc của Ôn Nghi.”

    Tôi nhìn chiếc kẹp tóc vàng có đính con ve sầu ngọc bích trên mái tóc nàng ta, cười nói: “Vật này trông rất quen mắt, hình như ta đã từng nhìn thấy nó trong kho của Hoàng thượng, là vật Hoàng thượng thưởng cho tỷ tỷ sao?”

    Hai má Tào Tiệp dư ửng đỏ, đáp: “Dạ. Chỉ là một thứ đồ chơi vặt vãnh mà thôi!”

    Tôi nâng áo đứng dậy, khi đi qua bên cạnh nàng ta liền khẽ nở nụ cười, đặt hai bông nghênh xuân trong tay vào lòng bàn tay nàng ta, nắm lấy mấy ngón tay thon nhỏ, nõn nà kia, khẽ nói: “Bàn tay Tào tỷ tỷ trông đẹp quá. Có điều dùng hoa nhài để nhuộm móng tay chẳng qua chỉ xinh xắn mà thôi, nếu khảm hoa nghênh xuân lên móng tay thì mới thực là sáng tạo, nhất định sẽ được Hoàng thượng yêu thích hơn.”

    Nàng ta nở nụ cười rạng rỡ, nhún gối tiễn tôi rời đi. “Đa tạ nương nương chỉ dạy!”

    Tôi và Cận Tịch trở lại cung, nàng ta đuổi những người khác đi, có vẻ khá âu lo nói: “Tào Tiệp dư không hề đáng lo, nương nương hoàn toàn có thể khống chế được. Có điều phía Thái hậu…”

    Tôi ngồi trước bàn trang điểm, gỡ cặp bông tai minh châu phỉ thúy xuống. Rời khỏi Di Ninh cung của Thái hậu đã lâu mà đến giờ lòng tôi vẫn còn thầm kinh sợ, cảm thấy Thái hậu hành xử, nói năng đều rất già dặn, bản thân căn bản không thể so sánh, do đó sự cảm phục và kính sợ trong lòng lại càng tăng thêm một phần.

    Tôi khẽ nói: “Ta không hề can dự vào việc triều chính, điều này Thái hậu cũng biết, nếu không hôm nay đâu chịu dễ dàng buông tha cho ta. Hôm nay Thái hậu làm như vậy không phải là có ý trách cứ, mà muốn nhắc nhở ta chớ nên dính dáng tới những việc ở tiền triều, coi như là để phòng ngừa trước.” Tôi thở dài cảm thán: “Thái hậu tuy đã lâu không hỏi tới việc triều chính, cũng không can thiệp vào hậu cung nhưng dụng ý quả là sâu sắc. Chắc hẳn lão nhân gia người sợ ta giẫm lên vết xe đổ của Hoa Phi, do đó mới cố ý nhắc nhở ta như vậy.”

    Cận Tịch nói: “Thái hậu sống trong cung đã lâu, trải việc rất nhiều, nương nương nhất định chớ nên đắc tội với Thái hậu.”

    Tôi gật đầu, đáp: “Điều này là đương nhiên!”

    Cận Tịch suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Nương nương phải tranh thủ tới chỗ Thái hậu nhiều một chút. My Trang tiểu chủ xem ra rất được lòng Thái hậu đấy!”

    Tôi nói: “Tỷ ấy không còn trông mong Hoàng thượng sẽ giáng tội cho Hoa Phi nữa, quá nửa là đã nảy tâm tư với Thái hậu. Như vậy cũng tốt, có Thái hậu làm chỗ dựa thì đáng tin cậy hơn so với Hoàng thượng nhiều.”

    Từ đó, tôi tuy có một chút tâm tư nhưng vì kiêng dè Thái hậu, do đó căn bản không dám tùy tiện dính dáng tới việc triều chính nữa.
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 10: Ngày xuân lạnh
    Đêm ấy, Huyền Lăng nghỉ ngơi trong Mật Tú cung của Hoa Phi, có điều, sau khi Hoa Phi được phục hồi ngôi vị, Huyền Lăng tuy vẫn ban thưởng, chiếu cố ả như trước đây nhưng không còn sủng ái bằng ngày trước nữa.

    Tôi chẳng mấy để tâm đến việc lúc này Huyền Lăng đối xử với Hoa Phi tốt thế nào hoặc sủng ái bao nhiêu. Hoa Phi và người sau lưng ả sớm đã trở thành những cái gai mà Huyền Lăng chỉ muốn nhổ bỏ thật sớm, bề ngoài có phong quang đến mấy thì kỳ thực cũng đã sắp lâm vào đường cùng.

    Do đó, tôi đặc biệt có thể nhẫn nhịn Hoa Phi, bất kể trước mặt người khác, ả tỏ ra lạnh lùng với tôi thế nào, tôi vẫn giữ đúng lễ tiết cần có, ngấm ngầm kìm nén nỗi căm hận vô biên xuống tận đáy lòng. Tôi chợt phát hiện, thù hận càng lâu, tôi lại càng dễ dàng nhẫn nhịn hơn.

    Sáng sớm ngủ dậy, tôi vừa mặc quần áo, đang định đi trang điểm, ngoảnh lại chợt nhìn thấy Huyền Lăng đang cười tủm tỉm đứng nhìn mình, không kìm được, hờn giận nói: “Hoàng thượng lúc nào cũng lẳng lặng bước vào như vậy, rõ ràng là có ý dọa người ta.”

    Y nói: “Nàng mới ngủ dậy, còn đang mơ màng, không thể nghe những tiếng động lớn, nếu không lòng sẽ phiền muộn, trẫm lại còn không biết sao?”

    Thấy y quan tâm tới cả thói quen nhỏ nhặt của mình, nơi đáy lòng tôi bất giác trào dâng mấy phần cảm động. “Sao mới sáng sớm mà Hoàng thượng đã tới đây vậy? Thần thiếp còn chưa chải chuốt, đầu tóc bù xù thế này thực không tiện gặp mặt chút nào.”

    Y cười, nói: “Nàng cứ trang điểm đi, trẫm đứng bên cạnh xem cũng được.” Nói rồi, y đi tới ngồi xuống mép giường, mỉm cười nhìn tôi.

    Tôi tươi cười ngoảnh lại, không để ý tới y, tự lấy phấn thơm, phấn hồng và cây vẽ mày ra, cẩn thận trang điểm. Vì bây giờ không có công chuyện gì, tôi chỉ vẽ mày nhạt và đánh chút phấn mỏng mà thôi.

    Huyền Lăng cười, nói: “Trẫm thấy những nữ tử khác thường là trước khi trang điểm một kiểu, sau khi trang điểm một kiểu, cứ như hai người khác nhau.”

    Tôi không kìm được, bật cười, nói: “Vậy chẳng phải rất tốt sao, Hoàng thượng ôm một người mà như được ôm hai người, đều là những giai nhân hai mặt, đủ thấy diễm phúc của Hoàng thượng sâu dày đến chừng nào.”

    Huyền Lăng đưa tay chống cằm, nghiêm túc nhìn tôi, cười nói: “Nàng ấy à, thật đúng là ‘những sợ phấn son nhơ sắc mặt, chầu vua chỉ phớt nét mày ngài[1]’ đấy!”

    [1] Dương Quý Phi có ba người tỷ tỷ, đều là bậc quốc sắc, cũng được triệu vào cung, phong làm Hàn Quốc phu nhân, Quắc Quốc phu nhân và Tần Quốc phu nhân, mỗi tháng được nhận chi phí son phấn mười vạn tiền. Quắc Quốc phu nhân đứng hàng thứ ba, tự cho rằng có vẻ đẹp thiên sinh lệ chất, thường không son phấn. Trương Hỗ trong Tập Linh đài kỳ 2 có lời thơ rằng “Phu nhân Quắc đội ơn trời, cưỡi ngựa vào cung buổi sớm mai. Những sợ son phấn nhơ sắc mặt, chầu vua chỉ phớt nét mày ngài.” Dịch thơ: Ngô Tất Tố. Phiên âm Hán Việt: “Quắc Quốc phu nhân thừa chủ ân, bình minh thượng mã nhập kim môn. Khước hiềm chi phấn uyển nhan sắc, đạm tảo nga mi triêu chí tôn.”

    Tôi rủ rỉ nói: “Lời này khen vẻ đẹp của Quắc Quốc phu nhân, thần thiếp thực không dám nhận.” Tôi che miệng cười khẽ. “Thần thiếp chỉ dám nhận một chữ ‘lãn’ thôi, thực không muốn ngày ngày lãng phí thời gian trước bàn trang điểm.”

    Tôi vén mái tóc lên, chỉ bới theo kiểu đơn giản nhất, lại lựa một cây trâm bạch ngọc có khắc hình chữ thọ cài lên. Ngọc vốn toát ra nét dịu dàng, màu trắng lại thể hiện sự cao quý mà không phô trương, rất thích hợp để dùng lúc thường ngày. Tôi trang điểm đơn giản thế này không phải để nương theo ý Huyền Lăng, chỉ là vì muốn tới chỗ My Trang, mà tỷ ấy ăn mặc giản dị như vậy, nếu tôi trang điểm diễm lệ quá, tuy ngoài miệng tỷ ấy không nói gì nhưng trong lòng nhất định sẽ không vui.

    Y nhìn tôi chăm chú, dường như có chút ngẩn ngơ, miệng lẩm bẩm gọi: “Hoàn Hoàn.”

    Tôi khẽ “ưm” một tiếng, đưa mắt ra hiệu cho các cung nữ đang hầu hạ trong điện lui xuống, ngoảnh lại hỏi: “Gì vậy?”

    Y không nói gì, chỉ đứng dậy, cầm cây bút vẽ lông mày trên bàn trang điểm lên, bước tới trước mặt tôi. Tôi hiểu dụng ý của y, mỉm cười, nói: “Phải rồi, Tứ lang thích nhất kiểu mày hình núi xa.”

    Y mang theo bốn phần nghiêm túc, ba phần nét cười, hai phần chân thành, một phần ngơ ngẩn, nhìn chăm chăm vào đôi mắt tôi, đưa bút lên vẽ một cách thuần thục.

    Tôi thầm cảm thấy ấm áp, tình cảnh bây giờ thật giống với lúc ở Thái Bình hành cung biết bao. Vẻ mặt của y không hề vì thời gian mà thay đổi. Trong mắt y tràn đầy tình cảm, trong giọng nói cũng ngợp nỗi thương yêu: “Trông nàng vẫn giống hệt như ngày trước.”

    Tôi khẽ gật đầu, dịu dàng nói: “Tứ lang còn nhớ ‘Giảo lê trang’ không?”

    Đôi mắt y khẽ máy động, thoáng im lặng rồi lấy cây bút từ trong chiếc hộp sứ tráng men ra, nhúng đẫm son đỏ, bắt đầu vẽ một đóa hoa lê đang nở rộ, sau đó lại nhúng vào bột phấn trắng tô điểm thành hình nhụy hoa. Khóe miệng y hơi nhếch lên, nở nụ cười rạng rỡ. “Tất nhiên không thể nào quên được.”

    Sự yêu mến nơi đáy lòng tôi lại một lần nữa trào dâng, sau bao chuyện xảy ra trong quãng thời gian vừa rồi, tâm trạng tôi đã khác hẳn trước đây nhưng mấy phần chân thành mà y lộ ra khi vẽ lông mày cho tôi không ngờ lại làm tôi ngẩn ngơ như muốn rơi lệ.

    Dù y có đối xử với tôi bạc bẽo đến mấy, chắc hẳn vẫn có một chút tình ý thực lòng. Cũng như tôi, cho dù ngấm ngầm tính kế rất nhiều sau lưng y nhưng khi xoay người lại, nơi nội tâm rốt cuộc vẫn có một chút bận lòng và lưu luyến.

    Tôi và y, dù có tệ đến mấy, dù có nhiều ngăn cách đến mấy, khi ngoảnh lại, chuyện cũ như mây khói, rốt cuộc vẫn có một chút gì đó mà cả hai bên đều không thể buông bỏ.

    Sống mũi tôi bất giác cay cay, vành mắt hơi ửng đỏ, bàn tay lặng lẽ ôm chặt lấy eo y, đầu vùi vào ngực y, trong lòng trào dâng muôn vàn cảm xúc, chua cay mặn ngọt đan xen.

    Y hôn lên trán tôi, khẽ thở dài, giọng đầy trìu mến: “Nha đầu ngốc!”

    Có lẽ tôi quả thực rất ngốc. Tôi nhỏ hơn y mười tuổi, trong thời gian mười mấy năm ấy, bên cạnh y có biết bao nhiêu mỹ nhân yêu kiều thướt tha, muôn hồng ngàn tía. Còn tôi, dù trong bụng là muôn vàn mưu kế, thứ thật sự để tâm cũng chỉ là một chút tình ý thật lòng mà thôi.

    Lồng ngực của y vẫn ấm áp như xưa. Lúc này đang là mùa xuân, quần áo trên người chúng tôi đều khá mỏng, cách nhau hai lớp áo, tôi lại càng cảm nhận rõ ràng nhiệt độ của cơ thể y.

    Ngoài sân, vô số nhành hoa đã nở, biêng biếc hồng hồng, thực là xuân sâu như biển. Hồi lâu sau, y mới buông tôi ra, nhẹ nhàng lau đi vệt nước mắt vẫn còn đọng trên má tôi. “Đang yên đang lành sao lại thương tâm như thế?”

    Tôi bật cười khúc khích, đưa tay lên lau mắt, cất giọng tinh nghịch: “Đã lâu lắm trời không mưa rồi, thiếp sợ Tứ lang quên mất ‘hoa lê đái vũ[2]’ là như thế nào, do đó cố tình để Tứ lang xem thử.”

    [2] Câu thành ngữ hình dung dáng vẻ của người con gái khi khóc, nghĩa đen là hoa lê dính nước mưa.

    Y chăm chú nhìn tôi một lát, nói: “Quả đúng là giống hoa lê, thanh đạm mộc mạc quá rồi!”

    Tôi soi mình vào trong gương xem thử, sau đó liền lấy phấn hoa đào ra đánh thêm một tầng, khiến khuôn mặt trở nên hồng hào như ráng chiều lúc sắp tan. Rồi tôi lại cài lên búi tóc một cây lược mạ vàng đính trân châu, ánh châu tỏa ra như nước. Y chợt đưa tay hái một nhánh hải đường với hai bông liền cành phớt đỏ, cài lên tóc tôi, mỉm cười cất tiếng ngâm: “Bảo kế thiên nghi cung dạng, liên kiểm nộn, thể hồng hương. Mị đại bất tu Trương Sưởng họa, thiên giáo nhập tấn trường.”

    Tôi dịu dàng đưa mắt nhìn y, nửa tươi cười nửa hờn giận, cất giọng du dương tiếp đoạn sau: “Mạc ỷ khuynh quốc mạo, giá thủ cá hữu tình lang. Bỉ thử đương niên thiếu, mạc phụ hảo thời quang[3].”

    [3] Bài Hảo thời quang của Đường Huyền Tông. Dịch nghĩa: Búi tóc và lối ăn mặc đều là kiểu thịnh hành trong cung, khuôn mặt mềm mịn như hoa sen, thân thể hồng hào thơm ngát. Đôi hàng lông mày không cần ông Trương Sưởng thời Hán vẽ thêm, trời sinh đã dài và đẹp sẵn. Đừng ỷ vào nhan sắc khuynh thành của bản thân, hãy mau mau gả cho tình lang mà mình vừa ý. Lúc này đôi bên đều đang tuổi thanh xuân tươi trẻ, chớ nên lãng phí quãng thời gian tốt đẹp này – ND.

    Trên mặt y ngợp nét cười, phong thái lại càng siêu phàm thoát tục, y chỉ tay vào nhành hải đường trên búi tóc tôi, nói: “Trẫm và Hoàn Hoàn cũng đang tuổi thanh xuân tươi trẻ, hãy mãi mãi ở bên nhau như hai bông hoa liền cành này.”

    Không biết là vì sớm xuân lạnh hay là vì nơi đáy lòng tôi giá lạnh, nhìn hai bông hải đường liền kề cùng nở rộ bên nhau, tôi cảm thấy sự náo nhiệt và tình ý miên man kia chỉ thuộc về hải đường, chỉ được thác gửi trên mái tóc của tôi, còn thì chẳng có chút liên quan nào tới tôi và y hết.

    Huống chi, trong quãng thanh xuân tươi trẻ này, tôi chỉ có vẻ bề ngoài xinh đẹp. Còn y, có thể coi là tình lang mà tôi vừa ý không?

    Lòng tôi không khỏi buồn bã, tôi và Huyền Lăng sao có thể là hai bông hoa liền cành được? Các nữ tử chốn hậu cung đều như hoa, còn y chính là đôi tay hái hoa, muốn làm gì cũng được, mọi việc đều tùy hứng. Rốt cuộc, tôi vẫn không thể và cũng không dám tin. Chỉ là nhìn thần sắc cực kỳ hào hứng của y trong gương, tôi không đành lòng phản bác lời y, chỉ mỉm cười không nói.

    Sắc xuân giống như một dải gấm mịn trải rộng khắp đất trời. Bên trong căn phòng, nhành hoa và khuôn mặt tôi như hòa làm một, lại kết hợp với đôi hàng lông mày hình núi xa, thực đã thể hiện rõ tâm ý của y.

    Y ghé tai tôi, khẽ nói: “Đã lâu lắm không được nghe tiếng đàn của Hoàn Hoàn rồi!”

    Tôi nghiêng đầu qua, nở một nụ cười rạng rỡ, đáp: “Vậy thần thiếp xin dùng bài Hảo thời quang này để làm một khúc nhạc mới.”

    Buổi chiều hôm ấy, Huyền Lăng rời đi, tôi liền vội vã tới Tồn Cúc đường của My Trang.

    Lúc này mặt trời đang lên cao, nắng dịu gió mát, bóng cây nhè nhẹ đung đưa. Trong Tồn Cúc đường vô cùng tịch mịch, chỉ thấy Thái Ngệt đang một mình nằm trên chiếc sạp nhỏ ngoài hiên, để chiếc quạt lông lên che mặt mà ngủ gật. Tôi thấy nàng ta ngủ ngon lành thì không đành lòng đánh thức, bèn rảo bước đi thẳng vào trong.

    Khi đi đến dưới cửa sổ, tôi loáng thoáng nghe thấy có tiếng người trò chuyện, hình như là giọng của Ôn Thực Sơ, do đó không tiện tự ý đi vào, lại sợ Thái Nguyệt tỉnh dậy đột nhiên nhìn thấy mình sẽ kêu lên, thế là bèn chọn một chỗ cây cối rậm rạp mà tránh tạm vào.

    Tôi đứng ngay cạnh rèm cửa sổ, loáng thoáng nghe thấy giọng nói của Ôn Thực Sơ vang lên trong phòng: “Tiểu chủ nhiều đờm là vì trong người hỏa vượng, nên ăn một ít lê để làm mát cơ thể, cũng có thể trộn lẫn với đường phen rồi hầm lên ăn, như thế sẽ tốt hơn là uống thuốc. Dù sao trong thuốc cũng có ba phần chất độc, muốn cơ thể khỏe mạnh thì quan trọng nhất vẫn là phải chú ý dưỡng sinh.”

    My Trang khẽ thở dài một tiếng, trong giọng nói có chút u oán: “Lê nghe cứ như là chia ly, ta đã ở một nơi hiu quạnh chẳng thấy được mấy bóng người thế này rồi, ngươi còn muốn ta ăn lê sao? Ai thèm ăn lê chứ? Ta thà cứ để trong người hỏa vượng còn hơn.”

    Gió thổi qua nhè nhẹ, hoa bay cũng chẳng làm phát ra chút tiếng động nào. Sau một hồi lâu tĩnh lặng, giọng nói của Ôn Thực Sơ mới vang lên: “Lời này nghe giống như là đang giận dỗi. Vậy vi thần sẽ viết một đơn thuốc cho tiểu chủ, tiểu chủ cứ dựa theo đó mà uống.”

    Mãi lâu sau, dường như My Trang lại thốt ra một tiếng thở dài buồn bã, bên trong ngợp đầy cảm xúc đan xen.

    Ngoài sân vắng lặng không một bóng người, tôi đứng một mình sau gốc dương liễu lá rủ chạm đất, bất giác ngây ra.

    Ánh dương màu vàng nhạt len qua những tán lá thưa chiếu xuống, dịu nhẹ như dòng nước, trải lên những viên đá cuội bóng bẩy một mảng màu loang lổ. Trong phòng hoàn toàn tịch mịch, một làn gió xuân thổi qua gốc lê già sau lưng tôi, mấy bông hoa rơi xuống đất phát ra những tiếng “lộp bộp” khe khẽ. Trong buổi chiều bình thường này, tôi chợt bị mấy câu nói hết sức bình thường kia đánh động, chẳng rõ vì sao, nơi đáy lòng bỗng trào dâng một nỗi ngẩn ngơ, không sao bước lên phía trước được nữa.

    Lát sau, trong phòng có người đứng dậy làm bàn ghế phát ra những tiếng “lạch cạch”. Tôi không muốn gặp Ôn Thực Sơ trước mặt My Trang, lại càng sợ ánh mắt của Ôn Thực Sơ khi nhìn mình, bèn vội nấp sau một khóm cây xanh um. Chỉ thấy My Trang đích thân tiễn Ôn Thực Sơ ra ngoài, Thái Nguyệt cũng đi theo sau, bộ dạng mơ màng ngái ngủ, hình như vừa mới tỉnh dậy.My Trang đứng trước cửa thùy hoa, mỉm cười, nói: “Ôn đại nhân hôm nay đi vội quá, sao không ngồi lại uống thêm chén trà rồi hãy về?”

    Ôn Thực Sơ khom người xá dài một cái, cung kính nói: “Đã phiền tiểu chủ phải dời gót ngọc rồi. Có điều thuốc của Quý tần nương nương còn đang sắc, vi thần sợ đám tiểu thái giám không trông coi cẩn thận, để lỡ thời gian thì dược tính sẽ bị ảnh hưởng.

    My Trang thoáng sững người, ngay sau đó lại cười, nói: “Hân Quý tần nuôi nấng Công chúa vất cả, thuốc của nàng ta quả thực cần chú ý một chút.”

    Ôn Thực Sơ thành thực đáp: “Tiểu chủ hiểu lầm rồi, vi tần đang nói tới Thần Tiên Ngọc Nữ phấn của Hoàn Quý tần. Đám tiểu thái giám kia tay chân vụng về, cứ để mặc chỉ sợ sẽ làm hỏng mất, vi thần nhất định phải đích thân tới kiểm tra mới được.”

    Sắc mặt bỗng trở nên lạnh lùng, My Trang cười, nói: “Ta còn tưởng là ai cơ. Thì ra là Hoàn muội muội. Có điều, lúc này Hoàn Quý tần đang được sủng hạnh, có ơn mưa móc tất nhiên khỏi cần dùng tới Thần Tiên Ngọc Nữ phấn làm gì cho mất công. Huống chi bây giờ Hoàn Quý tần đang đắc thế, bậu cửa cung chỉ e đã sắp bị người ta đạp đổ đến nơi, người làm tỷ tỷ ta đây còn phải né tránh, không ngờ đại nhân ngài lại nôn nóng đi thêu hoa trên gấm như vậy.”

    Những lời này của My Trang hết sức gay gắt, cay nghiệt, tôi nghe mà thầm kinh hãi, nghĩ bụng chẳng lẽ sau khi biết việc Hoa Phi được khôi phục ngôi vị là do chủ ý của tôi, sự bất mãn của My Trang lại sâu sắc như vậy? Ôn Thực Sơ nghe xong cũng cả kinh thất sắc, vội hỏi: “Cớ sao tiểu chủ lại nói vậy?”

    My Trang biết mình đã lỡ lời, thấy Ôn Thực Sơ biến sắc thì cũng có chút hối hận. Sắc mặt tỷ ấy dịu đi hẳn, cất giọng ôn tồn nói: “Ta gần đây tính khí không được tốt, đã khiến đại nhân khó chịu rồi. Có điều dù gì cũng phải nói thêm một câu, thêu hoa trên gấm không ai nhớ, tặng than giữa trời tuyết rơi ân tình mới thực sâu. Đại nhân chắc hiểu rõ điều này.”

    Ôn Thực Sơ nghiêm túc nói: “Trị bệnh chế thuốc vốn là bổn phận của vi thần, cũng giống như việc vi thần tận tâm tận sức bắt mạch bốc thuốc cho tiểu chủ vậy. Vi thần không hề ngại thêu hoa trên gấm, chỉ mong rằng bất kể là tiểu chủ hay Hoàn Quý tần nương nương, đều vĩnh viễn không có dịp nào cần vi thần tặng than giữa trời tuyết rơi.”

    Những lời này của Ôn Thực Sơ hết sức chân thành, tha thiết, không chỉ My Trang nghe xong chấn động, ngay đến tôi cũng phải biến sắc. Tuy Ôn Thực Sơ có chút lỗ mãng, không biết kiềm chế bản thân, nhưng ân tình với tôi, sự chân thành với My Trang, giữa chốn hậu cung lòng người ấm lạnh vô chừng này quả thực vô cùng hiếm có.

    Quả nhiên My Trang không còn bất mãn nữa, chỉ nói: “Chỉ mong Ôn đại nhân có thể đối xử với ta và Hoàn muội muội như nhau, tận tâm chiếu cố, đừng phân biệt người này người kia.”

    Ôn Thực Sơ khom người, đáp: “Cả Quý tần nương nương và tiểu chủ đều là chủ nhân của vi thần, cũng là người mà vi thần phải dốc lòng chiếu cố, vi thần nhất định sẽ dốc hết sức phục vụ nương nương và tiểu chủ. Ngoài điều này ra, trong lòng vi thần không còn ý niệm nào khác.”

    My Trang hiển nhiên không ngờ hắn lại nói như vậy, bất giác sững người, sau đó lạnh lùng nói: “Thái Nguyệt, mau tiễn khách, thái y đi chậm rãi.”

    Ôn Thực Sơ cùng Thái Nguyệt rời đi, My Trang lại có chút ngơ ngẩn, buông thõng hai tay đứng nơi đầu gió, không nói một lời.

    Tôi thấy tỷ ấy thì bất giác cả kinh, có lẽ nào… Nhưng ngẫm lại, My Trang một lòng muốn lật đổ Hoa Phi, mà tỷ ấy lại là người hiểu rất rõ bản thân muốn đạt được điều gì, sao có thể hồ đồ đến vậy được? Chắc hẳn cơn giận dữ này chỉ là vì tôi đề nghị khôi phục địa vị cho Hoa Phi mà thôi. Nghĩ như vậy, tôi cảm thấy yên tâm hơn một chút, sau khi chỉnh sửa sơ qua xiêm y liền đi vòng ra từ phía sau khóm cây, làm bộ như vừa mới đến, nói: “Tỷ tỷ sao lại đứng ở nơi đầu gió thế này? Cẩn thận kẻo bị cảm lạnh.”

    My Trang nghe tiếng liền ngước mắt lên, nhìn thấy là tôi, sắc mặt lập tức trở nên lạnh lùng, nói: “Hôm nay muội muội sao lại có thời gian rảnh mà tới chỗ ta vậy? Không bầu bạn bên Hoàng thượng nữa sao?”

    Nghe My Trang nói vậy, tôi không khỏi thầm nôn nóng, bèn bước lên phía trước níu lấy ống tay áo tỷ ấy. “Tỷ tỷ đừng giận mà, hôm nay muội tới đây chính là vì việc này, xin tỷ tỷ hãy nghe muội nói đôi lời.”

    My Trang cất bước đi lên bậc thềm, chậm rãi nói: “Ta hơi mệt, phải vào đi ngủ, khi tỉnh dậy còn cần tới cung Thái hậu nữa, muội hãy mau về đi.”

    Tôi lại càng nôn nóng, nắm chặt lấy bàn tay tỷ ấy. “Tỷ tỷ dù có tức giận thì cũng xin hãy nghe muội nói mấy lời. Chẳng lẽ tỷ tỷ đã quên hết tình nghĩa ngày xưa rồi sao?”

    My Trang thở dài một hơi, nhìn tôi, nói: “Muội vào đi!”

    5

    Trong chiếc sạp ngoài hiên còn đặt chiếc quạt mà vừa rồi Thái Nguyệt dùng che mặt. Tôi và My Trang kề vai ngồi bên nhau, cả hai đều im lặng. Tôi muốn làm không khí bớt gượng gạo, bèn nói: “Sao trong cung của tỷ tỷ không có bóng người nào vậy, đám nô tài kia đi đâu hết rồi?”

    My Trang ngoảnh đầu nhìn đi chỗ khác, nói: “Hôm nay là ngày trong cung phát quần áo mùa hè, ta đã bảo bọn họ tới phủ Nội vụ lĩnh rồi.” Tỷ ấy khẽ cười một tiếng. “Chỗ này của ta không được như chỗ của muội muội, ai ai cũng chen nhau tới, ngay đến chủ sự của Nội vụ là Khương công công cũng phải đích thân đưa quần áo của đám nô tài tới tận cửa.”

    Tôi không khỏi cảm thấy có chút lúng túng, nói: “Muội biết tỷ tỷ không mấy để tâm tới sự sủng hạnh của Hoàng thượng, vậy hôm nay tỷ tỷ giận muội như vậy là vì chuyện Hoa Phi khôi phục ngôi vị sao?” Sau khi dừng một chút, tôi nói tiếp: “Muội cũng chỉ bất đắc dĩ thôi, có ai mong đưa kẻ thù đã giết hại đứa con trong bụng mình trở lại ngôi vị cũ chứ? Nếu không phải vì chẳng còn cách nào, muội hà tất phải dùng chiêu này… Nỗi khổ muội phải chịu không hề kém gì tỷ, tỷ không thể dung tha cho ả, muội lẽ nào có thể dung tha?”

    My Trang tỏ ra khá xúc động, đôi mắt đen láy lóe lên những tia sáng rực, nhìn tôi, hỏi: “Vậy thì vì sao?”

    Tôi nhất thời nghẹn họng, duyên cớ bên trong tôi có thể nói với My Trang được sao? Việc này có liên quan đến chính sự ở tiền triều, nếu Huyền Lăng biết tôi tiết lộ thì phải làm sao? Mà một khi My Trang hiểu rõ nguồn cơn mọi chuyện, liệu có thật sự đợi được đến ngày hôm đó?

    Nếu tính khí của tỷ ấy nổi lên, ai có thể ngăn cản nổi? Mà một khi Hoa Phi biết nguyên do mình được khôi phục ngôi vị và nguồn cơn của việc sẩy thai, vô sinh, ả có thể không hận Huyền Lăng sao? Với tính cách nóng nảy của ả, chỉ e ngày mà gia tộc Mộ Dung trở mặt với Huyền Lăng sẽ tới ngay tức khắc.

    Tôi trầm ngâm suy nghĩ, lo trước lo sau, cuối cùng không dám nói ra toàn bộ chân tướng, chỉ giải thích: “Tỷ tỷ thử nghĩ xem, nếu hôm nay không khôi phục ngôi vị Hoa Phi cho Mộ Dung Thế Lan, chỉ sợ ngày sau tình hình thay đổi, ả được trở lại làm phu nhân cũng chưa biết chừng. Dù bây giờ tỷ tỷ được lòng Thái hậu, nhưng là sau này cũng không có cách nào ngăn cản.”

    My Trang nghe xong, sắc mặt lộ rõ vẻ khó chịu, lạnh lùng nói: “Bây giờ ả đã là Hoa Phi, sau này trở thành phu nhân há lại chẳng đơn giản hơn sao?” Tôi còn muốn nói tiếp thì nàng ta đã khoát tay mấy cái, ngăn lời tôi lại: “Được rồi, được rồi! Muội tự có lý do của muội, ta cũng có chỗ mà ta không hiểu, lời đã không hợp nhau khỏi cần nói nhiều làm gì.” Thoáng dừng lại, vẻ mặt tỷ ấy trở nên lạnh lùng và sắc bén, cất giọng nghi hoặc: “Lẽ nào muội thấy Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung thế mạnh, do đó mới muốn thông qua Hoa Phi để lấy lòng bọn họ?”

    Tôi nghe đến đây, trong lòng bất giác trào dâng muôn vàn nỗi ấm ức, không kìm được khẽ gọi: “Tỷ tỷ… Lẽ nào trong mắt tỷ tỷ, Hoàn Nhi lại tồi tệ đến vậy sao? Muội vẫn chưa quên ngày đó, mình đã mất đi đứa con trong bụng như thế nào đâu!”

    Nơi khóe mắt My Trang lộ ra mấy nét không đành lòng, định đưa tay ra nắm tay tôi an ủi nhưng sau khi do dự một chút, rốt cuộc vẫn không làm vậy.

    Ánh mắt có chút mơ màng, tỷ ấy khẽ nói: “Hoàn Nhi, từ nhỏ chúng ta đã ở bên nhau, ta biết mình tài không bằng muội, mạo cũng hơi thua kém, do đó liền lập chí tu đức trở thành một người dịu dàng, hiền thục. Muội học múa là chính, ta liền theo học đàn, xưa nay chưa từng thua kém muội. Về sau cùng vào cung, muội và ta vẫn luôn giúp đỡ lẫn nhau, dù bây giờ Hoàng thượng không còn sủng ái ta nữa, ta cũng không hề ghen ghét, đố kỵ muội.” Tỷ ấy đột nhiên chăm chú nhìn tôi, nơi khóe miệng để lộ một nét cười mỉm. “Nhưng không biết tại sao, bây giờ cứ nhìn muội là ta lại cảm thấy bản thân thua kém muội quá nhiều. Muội được Hoàng thượng sủng ái, được Ôn thái y ái mộ, có tẩu tẩu vào cung thăm nom thường xuyên, mà ca ca của muội cũng rất được Hoàng thượng yêu thích, mọi thứ có thể coi là vừa ý hết mức rồi.” Giọng nói của tỷ ấy càng lúc càng khẽ, tựa như tiếng nghẹn ngào của gió: “Nhưng còn ta, ta chẳng có gì hết.”

    Tỷ ấy nói như vậy, sau khoảnh khắc, cả hai chúng tôi đều im lặng.

    Gốc lê già phía trước sân nở đầy hoa thơm, giữa làn nắng xuân dìu dịu trông như một cây băng tuyết ngợp những đốm trắng. Lại ngó nhìn xung quanh, lúc này nắng tỏa vàng ươm, trời cao trong vắt, muôn hoa đua nở, lại kèm theo tiếng chim hót véo von, cảnh sắc mùa xuân thật tươi đẹp động lòng người.

    Còn My Trang, tỷ ấy thật cô đơn biết bao. Từ lời nói, nụ cười đến mỗi sợi tóc mỏng manh hay một ánh mắt hờ hững, tất cả đều toát lên vẻ cô quạnh vô biên.

    Tôi không nói gì hết. Tỷ ấy và tôi ngồi rất gần nhau, hệt như hồi nhỏ, hai chúng tôi đầu chụm đầu, cùng ngồi xếp thuyền giấy. Hồi đó, dòng nước thực trong veo, hệt như sắc trời bây giờ. My Trang nắm chặt lấy bàn tay tôi, cẩn thận thả chiếc thuyền giấy xuống nước. Tỷ ấy nói: “Nhũ mẫu nói, thả chiếc thuyền giấy này xuống nước, nếu nó trôi đi xa thì sau này sẽ phải gả chồng xa, còn nếu chỉ ở gần thì sẽ được gả chồng gần.”

    Tôi bật cười khanh khách, đưa ngón tay lên chỉ tỷ ấy. “My Trang tỷ tỷ không biết xấu hổ, đã muốn gả chồng rồi cơ đấy!”

    Tỷ ấy không xấu hổ cũng không tức giận, chỉ nói: “Hoàn Nhi, thuyền của chúng ta phải thả tới chỗ xa như nhau, như vậy sau này mới có thể được gả về cùng một chỗ, tốt nhất là một cặp huynh đệ, rồi chúng ta sẽ có thể ngày ngày ở bên nhau như bây giờ.”

    Tôi cũng bắt đầu nghiêm túc suy nghĩ, hồi lâu sau chợt bật cười. “Việc gì phải gả cho huynh đệ nhà khác chứ, My Trang tỷ tỷ gả đến nhà muội làm tẩu tẩu của muội không phải là được rồi sao?”

    My Trang nghiêng đầu đăm chiêu suy nghĩ rồi đột nhiên tỏ vẻ không hài lòng. “Ta được gả cho Chân ca ca rồi thì sẽ tới nhà muội, nhưng muội lại phải lấy chồng chỗ khác, vẫn không thể ở bên nhau được.”

    Nước mắt tôn rơi làm mờ đôi mắt tôi, tình cảnh hồi nhỏ như vẫn đang sờ sờ trước mắt, khiến tôi khó lòng quên được. Nhưng lúc này đây, My Trang đang ở ngay cạnh tôi, vậy mà tôi lại cảm thấy mình và tỷ ấy cách xa nhau vô hạn, một khoảng cách xa xôi trước giờ chưa từng có.

    Cảnh xuân tươi đẹp xiết bao nhưng trong lòng tôi lại chỉ toàn là những cơn giá lạnh. Tôi cất giọng thê lương: “Lẽ nào tỷ tỷ muốn xa lánh muội sao?”

    Sau một hồi tĩnh lặng, My Trang khẽ lắc đầu, nói: “Trong thiên hạ không có bữa tiệc nào không tàn, chẳng có gì gọi là xa lánh với không xa lánh cả.” Tỷ ấy chậm rãi cúi xuống. “Muội hãy mau về đi, không có việc gì thì không cần thiết phải tới đây thêm nữa.”

    Tôi hết cách ngoảnh đầu đi, khẽ nói: “Tỷ tỷ, sau này sẽ có ngày tỷ hiểu lòng muội.”

    My Trang ngẩng đầu nhìn trời, cất giọng thổn thức: “Có lẽ vậy. Ta hiểu được quá nhiều điều, và cũng có quá nhiều chỗ không hiểu.”

    Đáy lòng tôi tràn ngập cảm giác đắng chát khó tả, như thể đang nhai hoàng liên đầy miệng, thật đắng biết bao, nơi đầu lưỡi đã chát đến tê dại.

    Tôi đờ đẫn đứng dậy, khi đi tới ngoài cửa bỗng nhớ ra một chuyện. Tuy có phần mạo muội nhưng ngoài tôi ra, chắc chắn sẽ chẳng có ai nói với tỷ ấy điều này, thế là tôi bèn xoay người, nói: “Tỷ tỷ, thứ cho muội lắm lời. Trong hậu cung, có một số thứ tình cảm không nên có. Chẳng hạn như tình cảm với nam nhân khác.”

    My Trang nghe thấy lời này thì mí mắt bất giác nẩy lên, như thể phải bỏng, sau đó cố ý chăm chú nhìn tôi. Lát sau, tỷ ấy khẽ cất tiếng cười. “Ta không phi kẻ ngốc, cũng chưa hồ đồ! Lời này, muội hãy giữ lại mà khuyên Ôn thái y của muội ấy. Còn với ta, muội coi như đã phí công rồi!”

    My Trang nói hết sức rõ ràng, rành rọt, tôi nghe thế thành ra lại yên tâm, bèn nói: “Như vậy là tốt nhất. Tỷ tỷ không thích muội làm phiền, vậy muội xin đợi ngày mục đích đạt thành rồi sẽ lại tới đây.”

    Tỷ ấy xoay người đi, để lại cho tôi một bóng lưng lạnh lẽo, chẳng ngoảnh đầu lại thêm lần nào.

    Tôi buồn bã không thôi, tà váy lướt đi trên mặt đất rụng đầy hoa lê, kéo theo một vệt dài như vệt nước mắt. Tôi chậm rãi bước ra khỏi Tồn Cúc đường, nơi này, một thời gian rất lâu sau, tôi không thể tới.

    “Cạch” một tiếng, cửa lớn của Tồn Cúc đường phía sau lưng đóng lại. Tôi không sao kìm nén nổi, nước mắt lã chã rơi.
     
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 11: Nước chảy hoa đào trôi
    Từ chỗ My Trang trở về, tôi cả ngày buồn bực. Hôm đó tới cung Hoàng hậu thỉnh an, My Trang chỉ ngồi một lúc rồi cáo lui về trước. Tôi thấy tỷ ấy một mình rời đi, vẻ mặt lạnh lùng, hờ hững, cũng không hề trò chuyện với tôi câu nào, trong lòng bất giác trào dâng cảm giác hụt hẫng.

    Hoàng hậu có vẻ nhìn ra điều gì, dịu giọng nói: “Thẩm Dung hoa gần đây cư xử với người khác luôn như vậy đấy, Hoàn Quý tần bất tất phải để bụng làm gì.”

    Tôi gượng cười, đáp: “Chắc là vì bị ảnh hưởng bởi thời tiết thôi, thân thể My tỷ tỷ vốn không được tốt lắm, do đó mới có phần uể oải.”

    Hoàng hậu khẽ mỉm cười, nói: “Thời tiết chỉ là chuyện nhỏ, nhưng thân thể nữ nhân thường yếu ớt, phải chú ý giữ gìn, đừng để bị sinh bệnh thường xuyên như Đoan Phi.”

    Nàng ta không nhắc đến Đoan Phi còn đỡ, vừa nhắc đến tôi liền đột nhiên nhớ tới những lời Huyền Lăng nói với tôi về việc Hoa Phi sảy thai, rằng thuốc là do Hoàng hậu chính tay chế ra, nhưng Đoan Phi lại phải chịu tiếng oan, trái tim bất giác đập thình thịch một chặp, thầm kinh hãi. Hoàng hậu xưa nay vốn nổi tiếng nhân từ, hiền hậu, không hề khắt khe với các phi tần và con cái của họ, tuy khi tôi sẩy thai, nàng ta chỉ khoanh tay đứng nhìn, lại tiến cử Lăng Dung tới hầu hạ Huyền Lăng, nhưng cũng chưa từng bạc đãi tôi.

    Tôi giả vờ đưa ống tay áo lên che miệng uống trà, lén đưa mắt quan sát Hoàng hậu, chỉ thấy hai bàn tay nàng ta trắng nõn với mười ngón tay thon dài, móng tay nhuộm màu đỏ tía cực kỳ diễm lệ, tựa như những cánh hoa quỳnh đỏ. Trên hai ngón út của nàng ta đều đeo hộ giáp bằng vàng nạm ngọc, những viên ngọc nhỏ khảm bên trên lấp lánh tỏa sáng, nhìn như những dải cầu vồng.

    Tôi hơi sững sờ, một đôi tay đẹp đẽ thế này rốt cuộc làm thế nào để điều chế ra bát thuốc đắng chát lấy đi tính mạng của một sinh mệnh nhỏ bé còn chưa ra đời kia? Dù rằng đó là con của Hoa Phi, dù rằng nàng ta muốn giữ ngôi vị của phu quân nên mới làm như vậy, nhưng đây là một chuyện tàn nhẫn tới nhường nào.

    Tôi bàng hoàng, nếu người phải ở vào vị trí đó là tôi, liệu tôi có xuống tay nổi không, liệu có thể cho vào bát thuốc đó một thứ gì đó như hồng hoa hoặc đại loại thế? Mà màu sắc của hồng hoa, liệu có phải cũng giống như màu sắc trên móng tay của Hoàng hậu lúc này?

    Thấy tôi hơi ngẩn ra, Hoàng hậu nói: “Quý tần sao lại sững người ra như thế? Bất tất phải lo lắng về thân thể của Thẩm Dung hoa nữa. Ta nghe nói trong cung của Quý tần, hoa hải đường đang nở đẹp, hôm nay các vị tỷ muội đều có thời gian rảnh, chi bằng hãy đến cung của Quý tần ngồi chơi một chút.”

    Tôi nhanh chóng tỉnh táo trở lại, cười nói: “Hoàng hậu và các vị tỷ tỷ có nhã hứng như vậy, muội muội mong còn chẳng được.”

    Thế là cả một đoàn người cùng nhau rời đi. Trong cung của tôi bốn bề rèm treo lớp lớp, ánh bình minh chiếu xuống mờ ảo mê ly, phía trước Oánh Tâm điện, hai gốc hải đường Tây Phủ đang nở hoa rực rỡ, mỗi bông hoa đều đỏ rực như son, từng làn hương thơm chầm chậm tỏa ra ngoài điện, ngợp đầy trong phòng, tựa như những chén rượu ngon, khiến người ta thầm say đắm.

    Hoàng hậu chắp tay mỉm cười, nói với giọng đầy hứng thú: “Hải đường là giống tuyệt phẩm nhất trong các loài hoa, kiều diễm mà không lẳng lơ, đoan trang mà không cứng nhắc, những giống hoa diêm dúa bình thường không thể so được. Đường Lê cung của Quý tần quả là một nơi tuyệt diệu.”

    Nở một nụ cười ngọt ngào, tôi quay qua phía Hoàng hậu, nói: “Nếu không nhờ Hoàng hậu ngày đó ban Đường Lê cung cho thần thiếp, thần thiếp sao có được cảnh đẹp hôm nay để ngắm, thực phải cảm tạ Hoàng hậu nương nương rất nhiều.”

    Hoàng hậu vận một chiếc áo lĩnh thêu hoa màu xanh nhạt, bên dưới cây trâm vàng hình phượng hoàng trên búi tóc là một dải tua có treo hai viên minh châu to bằng ngón tay cái, không ngừng đung đưa qua lại. Nàng ta chỉ tay vào tôi mà cười, nói: “Trong số các tỷ muội toàn cung, chỉ có Hoàn muội muội là nói chuyện dễ nghe nhất thôi!”

    Hân Quý tần mím môi cười, nói: “Thục Hòa Công chúa năm nay đã năm tuổi rồi, trong miệng lúc nào cũng nhai kẹo, vậy mà vẫn không ngọt được bằng miệng của Hoàn muội muội.” Nghe vậy, mọi người đều nhất tề cười vang.

    Tôi ngượng ngùng cười, nói: “Hân tỷ tỷ lúc nào cũng thích trêu người khác như vậy, muội muội tính tình thẳng thắn, nói năng ngọt ngào đến mấy thì cũng là lời thực lòng. Mà lời thực lòng lọt vào tai người hợp ý, tất nhiên là thoải mái rồi. Nếu như là người có tâm ý gì khác nghe thấy, chỉ sợ sẽ thầm oán trách muội thôi, do đó muội mới thường xuyên đắc tội với người khác mà đến bản thân cũng không hay biết.”

    Kính Phi nhón một quả mơ xanh, nhúng vào mật hoa hồng, cười hiền hòa, nói: “Lời này của Hoàn muội muội nghe cứ như là vòng vo khen người khác ấy.”

    Lăng Dung đứng sau lưng Hoàng hậu, níu một cành hải đường tới bên mũi ngửi, sau đó khẽ nói: “Lời của tỷ tỷ cũng giống như quả mơ xanh trong tay Kính Phi tỷ tỷ vậy, người nào thích thì sẽ thấy nó ngọt, còn người không thích thì sẽ thấy nó chua chát. Chẳng qua là vì mỗi người đều có một tâm tư riêng mà thôi.”

    Tôi đưa mắt nhìn qua phía nàng ta. “An muội muội nói không sai, mỗi người đều có tâm tư riêng, không ai giống ai.”

    Nụ cười của nàng ta có chút lúng túng, rồi nhón một quả anh đào trong đĩa lên ăn, nói: “Thật ngọt quá!” Tôi hơi nheo mắt lại, chỉ nhìn nàng ta, không nói năng gì.

    Đường Lê cung dù sao cũng hơi nhỏ hẹp, từ sau khi tôi được tiến phong làm Quý tần cũng chưa từng cho tu sửa lần nào, chỉ đổi tên của Oánh Tâm đường thành Oánh Tâm điện. Lúc này Hoàng hậu dẫn theo bốn, năm phi tần đến đây, lại có các thị nữ đứng hầu xung quanh, nhất thời trong điện bóng người nườm nượp, tiếng oanh hót yến cười vang lên không ngớt.

    Đang lúc náo nhiệt, bên ngoài chợt vang lên một tiếng khóc lớn, các cung nữ, thái giám vốn canh giữ bên ngoài lập tức trở nên xao động. Hoàng hậu đột nhiên cau mày, tôi cố kìm nén vẻ không vui, thấp giọng hỏi Cận Tịch: “Có chuyện gì vậy?”

    Lời còn chưa dứt, từ ngoài cửa đã có một người chạy xộc vào. Tôi lập tức quát lớn: “Ai mà vô lễ như vậy? Người bên ngoài đâu, sao không ngăn cản? Không biết Hoàng hậu nương nương đang ở đây sao?”

    Người đó chạy thẳng đến trước mặt tôi, khi ngẩng lên tôi mới thình lình nhận ra đó là tẩu tẩu Tiết Thiến Đào của mình. Nàng ta kêu lên đau đớn: “Quý tần nương nương…” Rồi liền quỳ rạp xuống đất.

    Tôi thấy vậy thì vừa giận dữ vừa nôn nóng vừa đau lòng, vội sai người tới đỡ tẩu tẩu dậy, nói: “Hoàng hậu và mấy vị nương nương đang ở đây, có chuyện gì mà không thể từ từ nói, làm như vậy còn ra thể thống gì nữa?”

    Hoàng hậu cũng vội vàng lên tiếng: “Ngươi mau nói xem, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

    Tẩu tẩu được người ta đỡ dậy, tới lúc này tôi mới nhìn rõ bộ dạng nàng ta, khắp mặt dính đầy bụi bặm, nước mắt giàn giụa, chiếc áo lụa rộng rãi trên người nhàu nát như thể bị vò qua vô số lần, cái bụng đã mang thai hơn bốn tháng vừa nhìn là thấy rõ. Mái tóc rối bời của nàng ta buông xõa sau lưng, tuy có chút rối bời, nhếch nhác nhưng đôi mắt vẫn rực rỡ có thần, phong cách quý phái còn chưa mất hết. Tẩu tẩu thấy Hoàng hậu và mấy vị phi tần đều ở đây, vội vàng chỉnh sửa quần áo, lùi về phía sau một bước, cung kính hành lễ. Thế nhưng vừa nhìn sang tôi, nước mắt lại lập tức tuôn rơi, cất giọng buồn đau nói: “Nương nương! Xin nương nương hãy làm chủ cho thiếp thân!”

    Tôi vội khuyên nhủ: “Tẩu tẩu có gì cứ từ từ nói, sao phải khổ thế này!” Thế rồi bèn sai Cận Tịch đi lấy ghế cho nàng ta ngồi, sau đó hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Hoàng hậu nương nương cũng đang ở đây, tẩu tẩu cứ việc nói ra, người nhất định sẽ làm chủ cho tẩu tẩu.”

    Tẩu tẩu khóc rống lên, đáp: “Phu quân muốn bỏ ta!”

    Bỏ vợ là việc lớn, đặc biệt là trong các gia đình quan lại quý tộc, không thể chỉ dựa vào những điều trong Thất xuất[1] mà bỏ vợ, còn cần được cha mẹ đồng ý và phải thông qua sự bàn bạc trong gia tộc.

    [1] Tức là bảy điều lỗi lầm mà một khi người vợ phạm phải thì người chồng có thể bỏ vợ, tất nhiên là chỉ ở thời cổ đại. Bảy điều ấy gồm: Không hiếu thuận với cha mẹ chồng; không thể sinh đẻ; phóng đãng; đố kỵ; mắc bệnh nặng; nói nhiều; trộm cắp – ND.

    Tôi cả kinh, thoáng đưa mắt nhìn qua phía Hoàng hậu rồi vội vàng hỏi: “Chuyện này rốt cuộc là vì nguyên cớ gì?”

    Tẩu tẩu nhất thời nghẹn họng, ấp a ấp úng, không nói nổi lời nào. Người thị tỳ đi cùng nàng ta cất tiếng: “Nghe nói bên kia cũng đã có thai được một tháng rồi, thiếu gia ngày ngày kêu la đòi nạp… nữ nhân đó làm thiếp mang về phủ, thiếu phu nhân tuy hết sức giận dữ nhưng vì nữ nhân đó tốt xấu gì cũng mang thai đứa con của thiếu gia, liền tới thăm và tặng ít đồ bổ cho cô ta, ai ngờ cô ta hết sức ngông nghênh, lại còn bất kính với thiếu phu nhân. Thiếu phu nhân trong cơn giận dữ liền đẩy cô ta một cái, lúc đó cô ta còn thản nhiên giễu cợt phu nhân nữa. Nhưng việc sáng sớm hôm nay không ngờ lại bị người ta đồn thổi là thiếu phu nhân đẩy cô ta làm sẩy thai. Thiếu gia vô cùng giận dữ, lập tức viết giấy đòi bỏ thiếu phu nhân.”

    Tẩu tẩu đau đớn khóc lóc không thôi, khi đưa ống tay áo lên lau nước mắt liền để lộ cổ tay hằn đầy vết tím tái. Tôi tinh mắt, lập tức xắn tay áo tẩu tẩu lên, kéo cánh tay tẩu tẩu tới trước mặt mình, hỏi: “Chuyện này là thế nào?”

    Tẩu tẩu không thể giấu được, liền thút thít nói: “Vì ta không chịu, phu quân bèn động thủ đánh ta.”

    Hân Quý tần không kìm được “úi” một tiếng, mau mồm mau miệng nói: “Như vậy mà cũng đáng mặt nam nhân ư? Lại còn động thủ nữa? Ai biết được cái thai đó bị sẩy thế nào, mà dù có sinh ra thì cũng chỉ là thứ lộn dòng. Chân phu nhân cũng đang có thai kìa.”

    Hoàng hậu đưa mắt liếc nhìn nàng ta, đoạn ôn tồn nói: “Hân Quý tần tính tình bộp chộp, có điều lời nói kỳ thực cũng có lý, cái thai đó bị sẩy thế nào vẫn còn chưa rõ ràng, sao có thể tùy tiện bỏ vợ được. Huống chi đứa bé trong bụng nữ tử kia là của Chân đại nhân, lẽ nào đứa bé trong bụng thiếu phu nhân lại không phải? Thế này thực lỗ mãng quá rồi!”

    Lăng Dung im lặng lắng nghe một hồi, chợt nói: “Chân đại nhân chắc không tệ đến vậy đâu!”

    Lăng Dung vừa nói xong câu này, Tiểu Liên Tử vốn đứng hầu ở bên ngoài đã chạy vào bẩm báo: “Bẩm các vị nương nương, thị vệ bên ngoài nói Chân đại nhân đã tới, đang nóng lòng cầu kiến!”

    Hoàng hậu hỏi: “Là vị Chân đại nhân nào?”

    Tiểu Liên Tử đáp: “Là huynh trưởng của nương nương nhà nô tài, Chân đại nhân.”

    Tẩu tẩu vô thức co rụt người lại, khóc lóc nói: “Nương nương xem đó, phu quân đuổi theo tới tận trong cung rồi, chỉ e nhất định đòi bỏ thiếp thân mới nghe!”

    Tôi nghe nói ca ca đã tới, không kìm được dựng đứng đôi mày liễu, nói: “Đúng là hồ đồ, không ngờ lại bị mê hoặc đến mức như vậy! Hoàng cung là nơi y có thể càn rỡ được sao? Tẩu tẩu đừng sợ, y đến đây vừa đúng lúc, để bản cung cho y biết thế nào là lễ độ.” Rồi tôi quay sang nói với Hoàng hậu: “Nương nương là người đứng đầu hậu cung, chuyện đã ồn ào đến mức này thì không còn là chuyện nhà của một mình thần thiếp nữa. Chỉ mong nương nương thương lấy thần thiếp, giúp thần thiếp và tẩu tẩu chủ trì công đạo.”

    Hoàng hậu trầm ngâm nói: “Chuyện đã đến nước này, bản cung cũng không thể bỏ mặc không quản đến, mau đi mời Chân đại nhân vào đây!” Suy nghĩ một chút, nàng ta bổ sung thêm: “Phải bỏ hết vũ khí và giáp trụ bên ngoài.”

    Tiểu Liên Tử vội vàng vâng lời chạy ra ngoài. Kính Phi khẽ kéo tay áo Hân Quý tần và Lăng Dung, cung kính thưa với Hoàng hậu: “Bọn thần thiếp không tiện gặp nam tử bên ngoài, xin lui tạm vào nội đường.”

    Hoàng hậu gật đầu, nói: “Được, hãy tạm tránh vào bên trong đi!” Thế là tôi bèn bảo Hoán Bích dẫn ba người bọn họ vào nội đường nghỉ ngơi, cung nữ của cả ba cũng lần lượt theo vào.

    Tẩu tẩu nhìn thấy ca ca bừng bừng khí thế bước vào, bất giác lộ vẻ sợ hãi, bước tới làm lễ của người vợ gặp chồng. Nhưng ca ca lại không để ý tới, chỉ hành lễ với Hoàng hậu và tôi.

    Hoàng hậu thấy vậy liền hơi cau mày, có điều nhất thời cũng không phát tác, chỉ lệnh cho ca ca ngồi xuống bên cạnh. Tôi không khỏi có chút tức giận. “Trong bụng tẩu tẩu có cốt nhục của ca ca, trước mặt người khác mà ca ca còn đối xử với tẩu tẩu như vậy, lúc không có ai thì sẽ thế nào đây?”

    Ca ca không nghe thấy thì thôi, vừa nghe xong liền lập tức biến sắc. “Nương nương là muội muội ruột thịt của thần, sao lại một mực bênh vực người ngoài như thế? Trong bụng Tiết thị là cốt nhục của thần, lẽ nào đứa bé chết trong bụng Giai Nghi không phải là cốt nhục của thần sao?”

    Tôi từ nhỏ đã được ca ca rất mực yêu thương, sau khi vào cung, giữa huynh muội với nhau còn có thêm mấy phần lễ quân thần, nào đã từng bị ca ca trách cứ như vậy, không kìm được giận dữ nói: “Ca ca nói tẩu tẩu là người ngoài? Tẩu tẩu là con dâu của nhà họ Chân, là thê tử kết tóc của huynh, sao lại là người ngoài được? Trong mắt ca ca bây giờ chỉ có nữ tử thanh lâu kia mới thật sự là người thân của mình sao?” Tôi cố kìm né cơn giận trong lòng, nói tiếp: “Huống chi cái thai kia bị sẩy thế nào còn chưa rõ ràng, tẩu tẩu xưa nay chưa phạm lỗi gì lớn, lại đang có thai, lẽ nào ca ca nhẫn tâm đuổi tẩu tẩu ra khỏi cửa vào lúc này sao?”

    Ca ca bước lên trước một bước, lạnh lùng lấy từ vạt áo trước ngực ra một mảnh giấy trắng tinh, ném về phía tẩu tẩu: “Đây là giấy bỏ! Cô cầm lấy rồi đi luôn đi! Không ngờ lại dám hại đứa con trong bụng ái thiếp của ta, ta không muốn gặp loại nữ nhân rắn rết như cô nữa!”

    Cơ thịt trên mặt Hoàng hậu nẩy lên mấy cái, hắng giọng một tiếng, nghiêm túc nói: “Bản cung và Quý tần đang ở đây, Chân đại nhân nên chú ý tới lời lẽ và hành vi của mình một chút, chớ nên quên cái lễ của kẻ thần tử.”

    Ca ca cung kính khom người, đáp: “Dạ. Thần xin ghi nhớ lời dạy bảo của Hoàng hậu.”

    Tẩu tẩu che mặt khóc nức nở, toàn thân mềm nhũn ngồi bệt xuống đất, rồi đột nhiên đứng dậy, xoay người định đâm đầu vào gốc hải đường to bằng miệng chậu ở ngay gần đó. Thảm cảnh chừng như xảy ra đến nơi, tôi nhất thời sợ hãi đến nỗi sắc mặt trắng bệch.

    May mà Tiểu Liên Tử nhanh tay nhanh mắt, kịp thời lao tới chắn trước gốc cây, nhờ thế tẩu tẩu mới thoát nạn.

    Ca ca tuy cũng có chút sợ hãi, thoáng sững sờ nhưng vẻ chán ghét lập tức lộ rõ, phất ống tay áo nói với giọng khinh thường: “Thứ nhất khóc lóc, thứ nhì náo loạn, thứ ba tự tử, thực đúng là loại đàn bà vô tri! Quá ư tầm thường, đáng ghét!”

    Thấy cảnh tượng như vậy, tôi càng thêm giận dữ. “Nhà họ Chân chúng ta đã năm đời nay chưa từng có chuyện bỏ vợ, ca ca lẽ nào nhất định muốn để xảy ra án mạng hay sao? Nếu thế chúng ta biết phải ăn nói với Hoàng thượng và Tiết đại nhân thế nào?”

    Ca ca chỉ lạnh lùng đưa mặt nhìn thoáng qua tẩu tẩu, nói: “Loại tiện nhân sát hại cốt nhục của thần như vậy, thần quyết không thể cùng chung sống!”

    Tôi giận đến nỗi không nói thành lời, Hoàng hậu vội vàng an ủi. Tẩu tẩu nghẹn ngào khóc lóc, định lao đầu vào gốc cây tự tử tiếp, mọi người vội kéo lại ra sức khuyên nhủ, cảnh tượng nhất thời trở nên vô cùng hỗn loạn. Tôi nói: “Phản rồi, phản rồi, tốt xấu gì cũng là ở trong cung, Hoàng hậu lại đang có mặt, vậy mà cứ như là cặp vợ chồng thôn quê nơi phố chợ, còn ra thể thống gì nữa!”

    Đúng lúc này Lăng Dung chợt vén rèm ngăn lên, tha thướt bước ra từ trong nội đường. Nàng ta gạt mọi người ra, bước tới đỡ tẩu tẩu dậy, dịu dàng nói: “Thiếu phu nhân chớ nên thương tâm quá độ, tốt xấu gì cũng còn có Hoàng hậu và Quý tần ở đây làm chủ mà. Dù thiếu phu nhân bất chấp tất cả thì cũng phải nghĩ đến đứa bé trong bụng mình nữa chứ, chín tháng mười ngày vất vả lẽ nào uổng phí chỉ trong một khoảnh khắc này thôi sao? Huống chi, nếu thiếu phu nhân mà chết, thanh danh cả đời này của Chân đại nhân coi như hỏng cả. Thiếu phu nhân không thể coi rẻ tính mạng của mình được.” Nói rồi liền ngẩng đầu liếc nhìn ca ca.

    Ánh mắt ca ca có vẻ né tránh, vội quay đầu đi không nhìn nàng ta, chỉ nói: “Kính chào Tiểu viện tiểu chủ.”

    Tẩu tẩu vừa nhìn thấy Lăng Dung đã bất giác sững người, ả thị tỳ bên cạnh không kìm được khẽ “ồ” lên một tiếng, tò mò nói: “Vị tiểu chủ này trông giống với Giai Nghi cô nương quá chừng!” Lời nói vừa dứt, Lăng Dung cũng ngẩn ra.

    Tẩu tẩu lập tức nghiêm giọng quát bảo: “Chớ có ăn nói bừa bãi, mạo phạm tiểu chủ.” Sau đó lại quay sang nghẹn ngào nói với Lăng Dung: “Kẻ nô tỳ không hiểu quy củ, xin tiểu chủ chớ trách.”

    Lăng Dung mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ, dùng chiếc khăn tay của mình lau nước mắt cho tẩu tẩu, nói: “Không sao. Mời thiếu phu nhân cùng ta vào trong tắm rửa, chỉnh trang lại xiêm y một chút, chứ để thế này chỉ e đám nô tài sẽ chê cười.” Tôi khẽ gật đầu, tẩu tẩu liền y lời vào trong.

    Lăng Dung mới đi được mấy bước, chợt xoay người nói với ca ca: “Ta tuy chưa được gặp vị Giai Nghi cô nương mà đại nhân vừa nói tới kia, nhưng với nhãn quang của đại nhân, đó ắt là một vị giai nhân tuyệt sắc. Có điều ta xin mạo muội khuyên đại nhân một câu: Người mới tuy rằng tốt, nhưng cũng chớ nên quên người cũ. Lẽ nào đại nhân đã quên hết tình nghĩa ngày xưa rồi sao?”

    Sắc mặt ca ca có vẻ khá xúc động, sau nháy mắt đã nghẹn lời, chỉ biết ngây người đứng đó. Lăng Dung cũng không nói nhiều thêm, đỡ tẩu tẩu tha thướt bước vào nội đường.

    Bầu không khí nhất thời trở nên tĩnh lặng, tôi dịu giọng khuyên nhủ: “Lời của An Tiểu viện chắc đã khiến ca ca tỉnh táo ra nhiều rồi chứ? Bản cung xin khuyên ca ca một câu, đứa bé kia làm sao mà mất hãy còn chưa biết. Ca ca với ả ta chẳng qua mới chỉ đi lại được hai tháng, sao lại đột nhiên có thai rồi đột nhiên sẩy thai như vậy, ai mà biết bên trong có quỷ kế gì không. Tẩu tẩu xưa nay vốn hiền lương đức độ, nếu ca ca kiên quyết đòi nạp thiếp ắt sẽ không phản đối, nhưng cũng phải là loại nữ tử con nhà lương thiện được mai mối đàng hoàng, hơn nữa cũng nên đợi tẩu tẩu sinh nở xong xuôi. Vì một nữ tử thanh lâu xuất thân hèn kém mà làm cho gi đình náo loạn, vợ chồng bất hòa như vậy thì còn ra thể thống gì nữa?”

    Ca ca ban đầu còn yên lặng lắng nghe, nhưng đến cuối cùng vẫn lộ vẻ khó chịu, cất giọng lạnh lùng nói: “Quý tần nương nương muốn nói đỡ cho Tiết thị thì thôi cũng đành, nhưng hà tất phải nhằm vào Giai Nghi như thế? Ai ai cũng nói Giai Nghi xuất thân thấp kém, nhưng thần thì lại thấy cô ấy lương thiện hiền thục. Nương nương nói những lời cay nghiệt như vậy về người mình không thích, thứ cho thần không dám nghe.”
    Vì có Hoàng hậu ở bên cạnh, tôi cố giữ cho giọng mình thật bình tĩnh: “Vậy ca ca tùy tiện nghe lời người khác mà đòi bỏ vợ kết tóc, bản cung lại càng chẳng dám nghe. Ca ca nói cô ả Giai Nghi đó là người lương thiện, hiền thục, nhưng thử hỏi có người lương thiện, hiền thục nào lại đi bất kính với chính thê, xúi bẩy cho phụ tử bất hòa, phu thê ly dị?” Tôi càng nói lại càng căm phẫn, vành mắt bất giác đỏ hoe, nói tiếp: “Bản cung thấy ca ca hình như cố ý nhằm vào bản cung thì phải, chẳng lẽ ca ca một mực canh cánh việc tẩu tẩu là người năm xưa bản cung chọn cho ca ca, không hợp với tâm ý ca ca, do đó mới mượn việc ngày hôm nay để phát tiết sự phẫn nộ?” Nói đến đây tôi lại càng thấy khó chịu, không kìm được cất tiếng khóc nức nở.

    Hoàng hậu thấy vậy liền kéo tay tôi lại, thấp giọng nói: “Muội xem muội kìa, người hòa giải đâu có phải như vậy, còn chưa hòa giải xong thì bản thân đã khóc rồi, như thế làm sao mà khuyên nhủ người khác được.” Rồi lại quay sang trách cứ ca ca: “Chân đại nhân tuy là huynh trưởng nhưng đồng thời cũng là thần tử, trước mặt Quý tần sao có thể vô lễ phạm thượng như vậy, đã quên mất cái lễ quân thần rồi sao?”

    Ca ca ngẩng cao đầu, nói: “Nếu Quý tần đã nói vậy, thần cũng khỏi cần giấu giếm nữa. Năm xưa nương nương một mực muốn chọn người vợ danh môn cho thần, nhưng lại không để ý đến việc thần và Tiết thị chưa từng gặp mặt mà tùy ý định ra mối hôn sự, do đó mới gây ra việc hôm nay. Thần chỉ có thể nhẫn nại đến bây giờ, quyết không thể chung sống với Tiết thị thêm nữa, cũng mong Hoàng hậu minh giám cho.” Ca ca nói xong những lời này thì có vẻ bình tĩnh hơn nhiều, chỉ là ánh mắt âm trầm, như thể bị mây đen bao phủ.

    Giữa khung cảnh im ắng ấy, trong nội đường chợt có tiếng chén trà rơi xuống đất. Tẩu tẩu lạnh lùng cất bước ra ngoài, thần sắc băng giá khác hẳn vừa nãy. Nàng ta sớm đã tắm rửa, chải chuốt xong xuôi, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, vỗ tay nói: “Hay lắm, hay lắm! Hôm nay chàng rốt cuộc đã chịu nói ra rồi. Thì ra phu thê chúng ta ở chung với nhau lâu như vậy, trong lòng chàng vẫn luôn có điều khúc mắc với thiếp. Tiết Thiến Đào này từ khi thành hôn với chàng vẫn luôn giữ bổn phận của người làm vợ, tôn kính bề trên, hôm nay chàng đã nói rõ là trong lòng chưa từng có thiếp, chúng ra dù có làm vợ chồng thêm cũng chẳng ích gì, khỏi cần tờ giấy bỏ kia của chàng nữa… Chân Hành, hai chúng ta từ nay ân đoạn nghĩa tuyệt!”

    Tẩu tẩu tuy mặt trắng bệch nhưng bờ lưng vẫn thẳng tắp, trong sự đáng thương toát ra một nét kiên nghị không thể xóa nhòa. Tôi nhìn mà thương xót không thôi, vội kéo tay tẩu tẩu lại, nói: “Bản cung có thể mặc kệ tình thân với huynh trưởng, nhưng quyết không thể không có tình nghĩa đậm sâu với tẩu tẩu. Ca ca có những lời hôm nay hoàn toàn là vì bản cung, nếu tẩu tẩu đã ân đoạn nghĩa tuyệt với ca ca, bản cung cũng không thể nhận người huynh trưởng này nữa.” Tôi đưa tay lên lau nước mắt, chỉ ra ngoài cửa. “Chân đại nhân làm như vậy ắt sẽ có ngày phải chịu cảnh mọi người xa lánh. Bản cung không muốn nhìn thấy ngài thêm nữa, tình cảm huynh muội chấm dứt từ đây. Mời đại nhân đi cho.”

    Mọi người thấy tình cảnh như vậy, nhất thời sợ hãi không dám nói năng gì. Hoàng hậu cất tiếng khuyên nhủ: “Chân đại nhân đã hồ đồ, lẽ nào Quý tần cũng giận quá mà thành hồ đồ sao? Những lời như vậy đừng nên nói ra na. Cái tình máu mủ kia lẽ nào chỉ vì một nữ tử không thân không thích mà phải chôn vùi?”

    Ca ca thoáng im lặng, trong mắt ánh lên những tia hờ hững xa lạ. Y kéo thẳng ống tay áo, nghiêm túc hành lễ, nói: “Tất cả mọi người đều xa lánh thần cũng chẳng sao, thần chỉ cần một mình Giai Nghi thôi. Thần cáo từ!” Nói xong liền chẳng buồn ngoảnh lại, rảo bước rời khỏi Đường Lê cung.

    Tôi thương tâm khóc nấc: “Hoàng hậu nghe thấy lời của y rồi đó, thần thiếp từ nay không còn người huynh trưởng này nữa!” Nói xong liền đau đớn ngoảnh đầu đi, ôm lấy tẩu tẩu mà cùng khóc lớn. Hoàng hậu, Kính Phi và Hân Quý tần đều thổn thức không thôi. Lăng Dung vẫn đứng bên cạnh nhưng sắc mặt thì có vẻ bình tĩnh vô cùng.

    Sau cơn náo loạn của ca ca, tôi sinh lòng giận dữ rồi lại bị nhiễm phong hàn, thêm vào đó đương độ cuối xuân đầu hạ, thời tiết liên tục thay đổi, do đó cơn phong hàn lần này cũng lâu khỏi, bao nhiêu lê hầm đường trắng và lá sơn trà hầm đường phèn ăn vào mà vẫn chẳng thấy có chút hiệu quả nào, mãi đến tận tháng Năm đã đổi sang dùng chăn mỏng mà tôi vẫn ho sù sụ không ngớt.

    Khi đến bắt mạch cho tôi, Ôn Thực Sơ chỉ nói: “Thân thể nương nương không tệ, hãy cố gắng tĩnh dưỡng đi.”

    Tôi nói: “Nhưng ta vẫn thấy hơi đau đầu. Mấy thứ thuốc mà đại nhân bốc cho ta thực là đắng quá, còn chẳng bằng lê hầm đường trắng và lá sơn trà hầm đường phèn nữa, có điều mấy thứ đồ ngọt đó ăn mãi cũng phát ngấy.”

    Hắn cười bảo: “Vậy thì có thể đổi sang dùng thuốc viên.”

    Tôi khẽ phe phẩy chiếc quạt lụa trong tay, nói: “Chẳng biết có phải vì trời bắt đầu nóng không nữa, bây giờ ta ăn thứ gì cũng chẳng cảm thấy ngon.”

    Ôn Thực Sơ cười, nói: “Nương nương vốn hay bị mắc bệnh sốt nhiệt vào mùa hạ, thêm vào đó lại ăn các thứ sơn hào hải vị quá nhiều, do đó mới sinh ra chứng bệnh như vậy.”

    Tôi không kìm được, bật cười, nói: “Phải đấy, ta ngày ngày đều ăn vịt ăn gà, thỉnh thoảng muốn ăn chút đồ chay thì người ta cũng nhất định đặt cho chúng những cái tên như là ‘gà chay’, ‘vịt chay’, vừa nghe đã chẳng muốn ăn nữa rồi.”

    Ôn Thực Sơ nói: “Vậy hãy ăn chút đồ nguội khai vị là được.” Sau đó lại bật cười, nói thêm: “Nếu nương nương không sợ chua, cứ ăn chút thịt người để làm thuốc dẫn, đảm bảo bệnh gì cũng khỏi hết.”

    Lời này vốn chỉ là nói đùa, nhưng chợt thấy bức rèm sa mềm màu xanh mặt hồ hơi động đậy, rồi Lăng Dung chậm rãi bước vào, cười tủm tỉm nói: “Ôn thái y đã ở đây, bệnh của tỷ tỷ chắc sắp khỏi rồi!”

    Tôi mời nàng ta ngồi xuống, rồi lại hỏi Ôn Thực Sơ: “Gần đây thân thể My tỷ tỷ thế nào?”

    Ôn Thực Sơ dùng vải mềm lau kĩ chiếc kim bạc, đáp: “Gần đây thân thể Dung hoa tiểu chủ không tệ, do đó vi thần cũng không thường xuyên tới thăm mạch.”

    Tôi đưa mắt liếc nhìn y. “Vậy thì tốt, vất vả cho Ôn đại nhân rồi!”

    Ôn Thực Sơ vừa rời đi, Lăng Dung liền nói: “Nghe nói gần đây tỷ tỷ mắc bệnh ăn uống không được ngon miệng, tiểu muội đã cho người chuẩn bị một ít đồ ăn thanh đạm, tỷ tỷ hãy nếm thử đi.” Nói rồi liền lấy từ trong hộp thức ăn ra một đĩa ngải cứu xào tươi, một đĩa măng non thái lát nhúng qua nước thịt muối, một đĩa bồ đất đậu phụ trộn dầu mè, một bát hoành thánh nhân tề thái, ngoài ra còn có một bát cháo gạo thơm Ngọc Điền.

    Tôi không tiện thoái thác một phen tâm ý của nàng ta, lại thấy nàng ta điệu bộ ân cần, liền cố nếm thử mỗi thứ một miếng, quả nhiên thấy rất hợp khẩu vị, bèn nói: “Tay nghề của An muội muội đúng là tốt thật!”

    Lăng Dung cẩn thận quan sát tôi ăn từng món một, thấy tôi mỉm cười hài lòng mới nói: “Những thứ rau này đều mới được hái ở vùng Giang Nam vào độ tháng Ba, tháng Tư, khi bên này trời lạnh thì bên đó đương lúc vào mùa, muội muội nghĩ tỷ tỷ đã nhiễm phong hàn, chắc hẳn không thích ăn những thứ đồ nhiều dầu mỡ, may mà mấy thứ này tỷ tỷ còn thích ăn, chỉ cần ăn được là bệnh sẽ nhanh khỏi thôi.”

    Tôi nở nụ cười đầy ý vị. “Quả nhiên mùi vị đều rất ngon, Hoàng thượng nhất định cũng sẽ thích lắm đấy, coi như không phí tay nghệ của muội muội.”

    Lăng Dung dường như không hiểu, e thẹn nói: “Tỷ tỷ đang nói đùa muội sao? Những món ăn này muội đặc biệt chuẩn bị cho tỷ tỷ mà.”

    Tôi chỉ khẽ mỉm cười, trò chuyện sang việc khác.

    Khi rảnh rỗi không có việc gì làm, tôi liền lấy đàn ra gảy. Tiếng đàn Trường tương tư réo rắt vang lên, nhưng thứ xuất hiện trong lòng tôi giữa khoảnh khắc ấy lại là tiếng đàn và tiếng tiêu dưới trăng ngày hôm đó, trong ký ức, ngay đến ánh trăng cũng trở nên mờ mịt.

    Y nói, Thanh coi Quý tần như người tri kỷ; y nói, nhạc tỏ lòng người, với nàng là vậy, với ta cũng là vậy; nơi đáy mắt y có những nét âu sầu nhàn nhạt và một sự quan tâm sâu sắc.

    Vừa bắt đầu trầm tư, không khí vốn nóng nực quanh tôi dường như đã trở nên mát mẻ hơn nhiều, cứ như đang ở giữa mùa thu với những bông hoa quế nở đầy, từng bông từng bông nhẹ nhàng rơi xuống vạt áo, ngay đến bảy sợi dây đàn mỏng manh cũng sinh ra cái giá lạnh của gió sương.

    Được một thoáng, tôi không kìm được thầm kinh hãi, đúng lúc này, Hoán Bích đột nhiên bước vào, khuôn mặt đầy vẻ lo lắng. “Trong phủ truyền tới tin tức, nói thiếu phu nhân đã về nhà mẹ đẻ và không trở lại, thiếu gia thì ngày ngày ở bên ngoài không về phủ, lão gia và phu nhân đều đang giận dữ vô cùng.” Thoáng dừng lại, Hoán Bích nói tiếp: “Lão gia đã buông lời rằng không nhận thiếu gia làm con nữa.”

    Lòng tôi máy động, mặt lộ rõ nét sầu, nói: “Muội xem đó, hai người muội muội đều còn nhỏ chưa hiểu chuyện, ca ca là con trai duy nhất trong nhà, vậy mà còn đáng giận như vậy, biết phải làm sao mới tốt đây? Hai chúng ta đều ở trong cung, nhưng lại chẳng thế giúp được.”

    Hoán Bích khuyên nhủ: “Nương nương đừng giận, đợi sau khi lão gia bình tĩnh trở lại, chưa biết chừng cục diện sẽ có thể vãn hồi. Mà đến khi thiếu gia suy nghĩ thông suốt chắc hẳn sẽ đi đón thiếu phu nhân về, như vậy không phải là cả nhà hòa hảo rồi sao.” Sắc mặt thoáng có chút sợ hãi, Hoán Bích nói tiếp: “Nhớ ngày đó ở trong cung chúng ta, nương nương, thiếu phu nhân và thiếu gia náo loạn thành ra như vậy, chỉ nghĩ đến thôi cũng thấy sợ hãi.”

    Tôi lắc đầu nguầy nguậy. “Chuyện tốt không truyền ra khỏi cửa, chuyện xấu lan xa tới vạn dặm. Loại chuyện thế này giấu sao được, ta nghe Hoàng thượng nói bên ngoài cục đang sôi sục vì chuyện này, tất cả đều đang xem trò cười của nhà họ Chân chúng ta đấy!”

    Hoán Bích mím môi, thấp giọng nói: “Tin đồn trong cung bây giờ cũng tồi tệ lắm, chỉ e bên phía Hoa Phi đang đắc ý vô cùng.”

    Tôi mặt không đổi sắc, chỉ nói: “Ta hơi mệt rồi!” Sau đó liền dời mắt nhìn về phía những dây đàn, nơi đáy lòng bất giác trào dâng một nỗi sợ hãi khó tả, rồi lại nói tiếp: “Thời gian này ta không thích gảy đàn, muội hãy đem cất đàn đi cho ta.”

    Trưa hôm nay tôi ngủ rất ngon lành, khi tỉnh dậy thân thể có chút mỏi mệt, lại để ý thấy bên ngoài bức màn vừa thấy hình như có một người đang đứng trước giường. Đang lúc mơ màng, tôi ngửi thấy một mùi thuốc kỳ lạ, trong thuốc có chút máu tanh, lại trộn lẫn với vị đắng chát thơm cay của thảo dược, thực là quái dị mà kỳ diệu đến khó tả.

    Tôi buột miệng hỏi: “Đang hầm thứ thuốc gì vậy?”

    Đáp lời tôi không ngờ lại là giọng của Lăng Dung, rồi bức màn cũng được vén lên. “Tỷ tỷ tỉnh rồi sao?”

    Tôi hơi ngạc nhiên, hỏi tiếp: “Muội đang hầm thuốc à?”

    Lăng Dung khẽ mỉm cười, đáp: “Muội đã sắc sẵn thuốc ở cung của mình rồi, chỉ mang đến đây hâm nóng lại cho tỷ tỷ thôi.” Nụ cười của nàng ta có chút miễn cưỡng. “Đây là đơn thuốc của Ôn thái y, tỷ tỷ uống vào sẽ nhanh chóng khỏe lại.”

    Tôi tỏ vẻ khó hiểu: “Ôn thái y đâu có kê đơn thuốc mới nào cho ta, muội muội kiếm thuốc ở đâu vậy?”

    Nàng ta đứng dậy, bưng ấm thuốc làm bằng gốm Tử Sa lên, chắt ra một bát thuốc đen ngòm, đi tới bên cạnh tôi, ngồi xuống, cất giọng khẩn thiết: “Tỷ tỷ mau uống đi.”

    Khi bát thuốc tới gần, thứ mùi tanh đó lại càng nồng đậm hơn, tôi không kìm được hồ nghi hỏi: “Đây là thuốc gì vậy?”

    Lăng Dung dè dặt uống một ngụm thuốc nhỏ, sau đó mới nói: “Tỷ tỷ đừng sợ, muội đã uống thử rồi, không việc gì đâu.”

    Tôi không hiểu dụng ý của nàng ta, cứ nhìn chằm chằm vào nàng ta dò xét một hồi. Lăng Dung khẽ cười dịu dàng, nói tiếp: “Lẽ nào tỷ tỷ không tin muội sao?” Nhưng nàng ta vừa đưa tay lên, một lớp vải băng dày trên cánh tay đã lộ ra rất rõ đằng sau ống tay áo may bằng vải mỏng.

    Tôi không để tâm tới việc uống thuốc, nắm tay nàng ta hỏi: “Muội bị sao vậy?”

    Lăng Dung vội kéo ống tay áo che chỗ băng bó lại, nói: “Không có gì, muội không cẩn thận bị thương thôi.”

    Tôi không cho nàng ta phân bua, nắm chặt cánh tay nàng ta không buông. Lớp vải trắng kia rất dày nhưng vẫn có vết máu lấm tấm rỉ ra. Tự nơi đáy lòng tôi vừa chấn động lại vừa nghi hoặc. “Tay của muội…” Thoáng do dự, tôi dời ánh mắt về phía bát thuốc đen ngòm kia.

    Lăng Dung rơi nước mắt, chậm rãi nói: “Dạ. Hôm đó, khi muội đ vào, vừa hay nghe thấy Ôn thái y nói dùng thịt người làm thuốc dẫn có thể giúp bệnh của tỷ tỷ khỏi hẳn, do đó mới thử xem. Hy vọng tỷ tỷ có thể khỏi bệnh.”

    Sau cơn kinh hãi, tôi có chút ngẩn ngơ, cũng có chút cảm động, vành mắt bất giác đỏ hoe. “Muội điên rồi… Đó chẳng qua chỉ là một câu nói đùa của Ôn thái y thôi, sao có thể coi là thật được. Huống chi ta cũng chẳng mắc bệnh nặng gì, đợi một thời gian nữa tự nhiên sẽ khỏi thôi!”

    Lăng Dung khẽ lắc đầu, nói: “Muội mặc kệ, muội chỉ cần tỷ tỷ khỏe lại là được.” Nước mắt của Lăng Dung từng giọt từng giọt tuôn rơi xuống tà váy, hóa thành những vòng tròn ẩm ướt. Nàng ta nói: “Từ sau khi tỷ tỷ được Hoàng thượng sủng ái trở lại, muội liền cảm thấy tỷ tỷ và muội đã trở nên xa lạ hơn nhiều, có phải vì Hoàng thượng cũng sủng ái muội không?” Thái độ của nàng ta trở nên nghiêm túc mà kiên định. “Muội ở trong cung chẳng có ai mà nương tựa, duy có tỷ tỷ và Hoàng thượng. Nếu vì sự sủng ái của Hoàng thượng mà tỷ tỷ xa lánh muội, vậy muội thà chỉ cần tỷ tỷ thôi.”

    Lòng tôi xao động, nhưng không hề quên đi chuyện trước đây, chỉ thở dài nói: “Lăng Dung, ta không có ý như vậy, chỉ là…”

    Lăng Dung không để tôi nói tiếp, cất giọng buồn bã ngăn lời tôi: “Tỷ tỷ, My tỷ tỷ đã lạnh nhạt với chúng ta rồi, lẽ nào tỷ tỷ cũng muốn xa lánh muội sao? Ba chúng ta cùng nhau vào cung, tuy muội không so được với tình cảm cùng nhau trưởng thành của tỷ tỷ và My tỷ tỷ, nhưng những ngày tháng sống trong Chân phủ đó, muội thực sự chưa bao giờ quên.”

    Mỗi lời của Lăng Dung đều khiến trái tim tôi xúc động. Những ngày tháng ở Chân phủ đó hình như là chuyện từ lâu lắm rồi. Lăng Dung ở nhờ trong nhà tôi, cùng nhau ăn uống nghỉ ngơi, một khắc không rời, ngay đến một cây trâm ngọc cũng phải cài luân phiên, thực thân mật biết chừng nào. Những ngày tháng trong cung đã mài mòn đi quá nhiều thứ, ngay đến My Trang cũng đã trở nên lạnh nhạt đi nhiều. Trong số những người mà tôi quen biết từ lâu, nay chỉ còn lại một mình Lăng Dung thôi.

    Tôi thật sự phải xa lánh Lăng Dung sao?

    Tôi nắm lấy bàn tay nàng ta, lật qua lật lại, nói: “Cho dù một lòng muốn tốt cho ta, muội cũng hà tất phải cắt thịt làm thuốc, tự hủy hoại thân thể mình như vậy?”

    Lăng Dung khẽ nở một nụ cười, nhưng những vệt nước mắt vẫn còn hiện diện, khiến người ta nhìn mà chua xót. Nàng ta nói rành rọt từng từ: “Bởi vì tỷ không chỉ là người tỷ tỷ duy nhất trong cung mà muội có thể nương tựa, còn là muội muội của người mà muội vẫn hằng ngày nhớ đêm mong.”

    Nghe thấy lời này, tôi kinh hãi tột cùng, trái tim đập thình thịch không ngớt. Đã từng có lúc tôi phải thầm suy đoán một cách kín đáo trong tâm trạng phập phồng thấp thỏm, rồi sau đó lại cẩn thận nhắc nhở và cản ngăn, nhưng lúc này đây nàng ta đột nhiên nói với tôi điều này, mang đến cho tôi cảm giác khó tin như thể mình còn đang ở trong giấc mộng.

    Tôi vội vàng bịt miệng nàng ta lại, ngó quanh bốn phía, nói: “Muội không muốn sống nữa sao? Lời này há có thể tùy tiện nói ra được!”

    Lăng Dung nở một nụ cười thê thảm, vẻ buồn thương nồng đậm ấy hệt như một cánh chim trắng muốt thấm đẫm nước sương, nặng nề đến nỗi không thể bay lên được. Nàng ta chậm rãi nói: “Sau khi vào cung, tính mạng của muội sớm đã không còn là của muội nữa rồi.”

    Nàng ta sầu khổ nhìn tôi. “Vốn cũng biết là không xứng và cũng không gánh nổi, nhưng giữa chốn thâm cung lạnh lẽo, đó chẳng qua chỉ là một chút si tâm vọng tưởng của muội thôi. Chân công tử và thiếu phu nhân môn đăng hộ đối, hẳn nhiên sẽ vợ chồng hòa hợp, muội cũng mừng thay cho bọn họ. Nhưng bây giờ không ngờ lại thành ra thế này…”

    Lời của Lăng Dung như một nhát búa mạnh nện vào trái tim tôi, si tâm vọng tưởng… Khi tôi gảy đàn, chút ký ức hiện lên đó có tính là si tâm vọng tưởng của tôi không? Một sự si tâm vọng tưởng đáng sợ và không nên có! Bởi ngoài Huyền Lăng ra, tôi không nên nghĩ tới bất kỳ nam nhân nào khác trên đời này.

    Tôi nở một nụ cười ngơ ngẩn, thoáng sau liền thở dài cảm thán: “Chúng ta đều là nữ nhân của Hoàng thượng. Sống là của Hoàng thượng, chết cũng là của Hoàng thượng.”

    Lăng Dung lẩm bẩm nói: “Sống là của y, chết cũng là của y…” Nàng ta đờ đẫn ngước mắt lên, nắm chặt chiếc khăn trong tay mình. “Vậy trái tim của muội… là của ai đây?”

    Tôi ngơ ngẩn lắc đầu: “Trái tim? Cũng không phải là của chúng ta.”

    Lăng Dung nhìn tôi, khẽ nói: “Đúng thế, tất cả mọi thứ đều là của Hoàng thượng, trái tim cũng thế. Vậy muội chỉ để lại một phần trái tim thôi, như thế thỉnh thoảng sẽ có thể nhớ đến những người và việc đáng để muội nhớ đến.”

    Không ngờ nàng ta lại mang tấm lòng chân thành với ca ca tôi như vậy, mà tấm lòng ấy cũng hệt như sự ngưỡng mộ trong lặng lẽ và cô độc của nàng ta trước lúc vào cung. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, nàng ta đứng một mình dưới cửa sổ phòng ca ca, chăm chú nhìn bóng dáng ca ca. Tôi không đành lòng nghe tiếp, kéo tay nàng ta lại, nói: “Muội mau đổ thuốc đi, ta không thể uống máu thịt của muội để chữa bệnh cho mình được.”

    Lăng Dung dường như không hề nghe thấy, ánh mắt một mực dừng lại trên người tôi. “Tỷ tỷ, muội sẽ không hại tỷ đâu. Vì tỷ là muội muội của huynh ấy, cũng là người duy nhất chịu giúp muội. Tỷ tỷ, tỷ phải tin muội… Trong chốn hậu cung này, chỉ có chúng ta là tỷ muội thôi!”
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 12: Tiếng ve theo gió tới
    Hiển nhiên, tôi đã hết sức cảm động. Dù rằng từng nghi kỵ nàng ta nhưng tình ý của nàng ta với ca ca thì tôi lại không thể xem thường. Những sự nghi hoặc và khúc mắc từng tồn tại trong lòng kia lúc này đã tiêu biến đi không ít dưới những lời lẽ khẩn thiết của Lăng Dung. Đắc sủng thì sao? Thất sủng thì thế nào? Tôi và Lăng Dung chẳng qua chỉ là hai trong số vô vàn nữ tử thân bất do kỷ ở chốn thâm cung này thôi.

    Chúng tôi không có thân thể, cũng không thể giữ lại cho mình một trái tim hoàn chỉnh, một phần còn sót lại kia thì cũng bị vướng bận bởi quá nhiều người, quá nhiều việc và quá nhiều tình cảm. Có thứ đáng để vướng bận, có thứ không đáng, quả thực quá nhiều.

    Thứ chúng tôi có thể tranh giành chẳng qua chỉ là một chút ân sủng mỏng manh và dễ dàng tan biến của kẻ đế vương. Muốn sống ở chốn hậu cung này, chúng tôi không thể không phân tranh, thứ duy nhất khác biệt chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài sẽ già đi rất nhanh theo năm tháng. Hồng nhan già đi trong nháy mắt, chưa già ân sủng đã đứt đoạn trước rồi, cuộc sống tuổi già có lẽ sẽ thê lương như nhau. Tới khi đó, những con người ôm gối kề vai ngồi quanh lò sưởi trò chuyện không chỉ là chúng tôi hồi trẻ, mà còn là chúng tôi trong độ già nua trơ trọi bơ vơ.

    Đã như vậy, tôi còn có thể một mực canh cánh trong lòng những lời của nàng ta ngày đó sao? Chỉ vì mối tình si của nàng ta với ca ca, tôi cũng nên mở rộng lòng mình hơn một chút.

    Sau buổi tâm sự hôm đó, tôi và Lăng Dung đã dần thân thiết với nhau hơn, cũng thường xuyên cùng đến cung Hoàng hậu thỉnh an. Huyền Lăng rất vui vẻ khi thấy cảnh tượng các thê thiếp của mình hòa thuận, thêm vào đó sau khi được khôi phục ngôi vị, Hoa Phi cũng không có hành động gì lớn, hậu cung bước vào giai đoạn yên bình, Huyền Lăng dường như có vẻ rất hài lòng về điều này.

    Mười mấy ngày sau tết Đoan Ngọ, khí trời bắt đầu trở nên nóng nực, mấy cung nhân cầm quạt lông đứng bên cạnh phe phẩy mà vẫn không xua hết được cái nóng. Thế là Huyền Lăng bèn hạ chỉ cho các phi tần và hoàng thân quốc thích cùng mình tới Thái Bình hành cung ở Tây Kinh để tránh nóng.

    Cả một đoàn hậu phi cùng rời đi, trừ các phi tử thất sủng và không có địa vị gì mấy, duy có My Trang là ngoại lệ. Tỷ ấy thoái thác với Huyền Lăng: “Thái hậu xưa nay chưa từng rời khỏi Tử Áo Thành, thần thiếp nguyện thay Hoàng thượng ở lại trong cung bầu bạn với Thái hậu, qua đó làm tròn đạo hiếu của kẻ cháu con.”

    Nghe thấy lý do quang minh chính đại như vậy, Huyền Lăng tất nhiên không thể phản đối, còn hết sức khen ngợi hành động này của My Trang, ban thưởng rồi để tỷ ấy ở lại trong cung.

    Khi tới Thái Bình hành cung, các đại thần nội thị sớm đã an bài ổn thỏa tấthảy mọi việc. Huyền Lăng vẫn ngụ tại Thủy Lục Nam Huân điện, Hoàng hậu ngụ tại Quang Phong Tễ Nguyệt điện, tôi vẫn giống như trước đây, ngụ tại Nghi Phù quán ở ngay cạnh hồ sen, còn Ngọc Nhuận đường mà My Trang từng ở thì được chuyển giao cho Lăng Dung.

    Ngày đầu tiên sau khi đến Thái Bình hành cung, tôi quyết định tới chỗ Lăng Dung ngồi chơi một lát. Thế nhưng gã thái giám dẫn đường lại không đưa tôi tới Phồn Anh các, nơi ở của Lăng Dung trước đây. Tôi không kìm được cất tiếng hỏi: “An Tiểu viện không ở Phồn Anh các sao?”

    Gã thái giám cười, đáp: “Bẩm nương nương, An tiểu chủ hiện ngụ tại Ngọc Nhuận đường rồi. Hoàng thượng nói An tiểu chủ và nương nương vốn thân nhau, ở gần nhau như vậy sẽ tiện việc chiếu cố, mà đường tới chỗ Hoàng thượng cũng gần.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, nói: “Bản cung còn có việc, tạm thời không tới chỗ An Tiểu viện nữa, ngươi lui xuống đi!” Gã thái giám đó cung kính khom người vái chào, sau đó liền cáo từ rời đi.

    Cận Tịch đỡ tay tôi chậm rãi quay trở về, thấy tôi có vẻ âu sầu thì liền thử thăm dò: “Nương nương đang thương cảm vì chuyện của Thẩm Dung hoa sao?”

    Tôi dừng bước, gật đầu, đáp: “Năm xưa My Trang xuân phong đắc ý, vậy mà giờ đây Ngọc Nhuận đường đã đổi chủ rồi, quả là cảnh còn người mất. Ta sợ rằng mình tới đó sẽ khó tránh khỏi tức cảnh sinh tình.”

    Cận Tịch thưa: “Nương nương xem trọng tình cảm tỷ muội trong cung, quả là hiếm có. Chỉ có điều nương nương cũng nên nhớ rằng trong hậu cung có vô vàn nương nương tiểu chủ, khó mà lường trước. Nương nương tuy quan tâm đến Thẩm Dung hoa nhưng cũng không cần vì việc này mà thương cảm.”

    Tôi cười buồn bã, nói: “Cận Tịch, ta cứ luôn thích để tâm tới những việc nhỏ nhặt như vậy đấy!”

    Cận Tịch cười, nói: “Nương nương đôi lúc quả có hay đa sầu đa cảm, nhưng cũng chỉ có những người dịu dàng, lương thiện mới như vậy, còn người lạnh lùng, tàn khốc thì không bao giờ.” Nàng ta hơi nghiêm mặt, nói tiếp: “Nhưng lần này An tiểu chủ ngụ tại Ngọc Nhuận đường thứ nhất là vì muốn gần gũi với nương nương, thứ hai là để tiện cho Hoàng thượng sủng hạnh. Nương nương nhất định cũng đã nhìn ra, An tiểu chủ bây giờ đắc sủng không kém gì Thẩm Dung hoa độ trước.”

    Tôi đưa mắt liếc nhìn nàng ta, hỏi: “Ngươi muốn nói gì?”

    Cận Tịch suy nghĩ một chút, khẽ cất tiếng đáp: “Nô tỳ không hiểu tại sao nương nương lại xa lánh An tiểu chủ, nhưng nhất định là có liên quan tới việc nương nương mắc bệnh thêm lần nữa sau khi thất sủng; cũng không biết tại sao nương nương và An tiểu chủ lại xóa bỏ hiềm khích cũ, hòa hảo trở lại nhưng nhất định là có liên quan tới việc An tiểu chủ đích thân sắc thuốc cho nương nương khi nương nương bị nhiễm phong hàn lần này. Nô tỳ tuy không thấu tỏ ngọn nguồn nhưng khi nương nương thất sủng, tiểu chủ chưa từng tới chăm sóc một ngày, bây giờ lại đích thân sắc thuốc, tâm ý thất thường như thế thực khiến người ta phải hoài nghi.”

    Lời này của Cận Tịch có thể nói là cực kỳ chuẩn xác, cũng chạm vào nỗi lo lắng trong lòng tôi. Tôi hỏi: “Ngươi cũng cảm thấy An tiểu chủ đáng ngờ sao?”

    Cận Tịch khẽ đáp: “Dạ!”

    Tôi chậm rãi đi tới, ngồi xuống dưới lùm cây: “Không phải là ta chưa từng nghĩ vậy, khi ta mắc bệnh, Lăng Dung đã cắt thịt làm thuốc cho ta, kỳ thực bệnh của ta đâu đến mức như vậy? Nhưng lòng người dù có bạc bẽo đến mấy thì cũng còn một chút tình cảm. Muội ấy hẳn cũng có sự vướng bận và lưu luyến của bản thân. Dù ta từng ôm mối khúc mắc với muội ấy nhưng điều vướng bận của muội ấy lại khiến ta không thể không chấn động.”

    Cận Tịch nói: “Nô tỳ không rõ mối vướng bận của An tiểu chủ mà nương nương nói đến là gì, nhưng mong rằng nương nương có được một nửa sự dữ dằn, tàn độc của Hoa Phi.” Cận Tịch thấy tôi im lặng thì ngỡ là tôi tức giận, lập tức quỳ xuống, mặt không đổi sắc, nói: “Xin thứ cho nô tỳ lắm lời, khuyết điểm của nương nương chính là ở chỗ lòng dạ quá mềm yếu, suy nghĩ cho người khác quá nhiều. Người lòng dạ mềm yếu thường hay bị liên lụy bởi chính lòng dạ mềm yếu của mình, mong nương nương hãy suy nghĩ cho kĩ.”

    Tôi vẫn không nói gì, gió rất nhẹ, những tán cây rậm rạp trên đầu xào xạc lung lay, thứ âm thanh phát ra khi lá cây cọ xát vào nhau đó thực khiến lòng người vui vẻ, nhưng trái tim tôi lúc này lại chẳng vui vẻ chút nào. My Trang ngày càng tỏ ra lạnh nhạt với tôi, sự gần gũi của Lăng Dung thỉnh thoảng lại khiến tôi nhớ tới sự khúc mắc ngày trước, còn Cận Tịch thì nghĩ tôi lòng dạ mềm yếu, không đủ tàn độc với kẻ địch. Tuy tôi lần nữa nhận được sự sủng ái của Huyền Lăng nhưng điều này vẫn chưa thể khiến tôi cảm thấy hoàn toàn yên tâm được.

    Khẽ gạt một sợi dây nhỏ trên tà váy, tôi trầm giọng nói: “Gần gũi mà vẫn đề phòng, đó mới là cái đạo đối nhân xử thế hay nhất trong hậu cung. Cận Tịch, hậu cung quá lạnh lẽo, tình cảm của phu quân không đáng tin, tình cảm của chủ bộc cũng có nhiều điều tráo trở, nếu đến cả tình tỷ muội ngày trước cũng hoàn toàn không để ý đến, trong cung còn thứ gì có thể làm ấm lòng người nữa đây? Tuy đôi lúc Lăng Dung có những hành vi khiến người ta bất ngờ, nhưng so với một số người thì muội ấy vẫn có mấy phần thật dạ.”

    Cận Tịch cúi đầu im lặng, lát sau mới nói: “Nếu không có chuyện về sau, sau khi nương nương vào cung, An tiểu chủ quả thực cư xử với nương nương rất thật lòng.”

    Tôi nói: “Việc lòng người dễ thay đổi, ta cũng hiểu, nhất định sẽ cẩn thận.”

    Thế rồi Cận Tịch không nói gì thêm, chỉ cùng tôi về cung nghỉ ngơi.

    Thế nhưng tôi vẫn phải qua lại với Lăng Dung một chút, dù rằng chỗ ở của nàng ta bây giờ là nơi mà My Trang từng trú ngụ ngày xưa.

    Hôm ấy trời trong xanh, mát mẻ, tôi dẫn Hoán Bích và Lưu Chu đến Ngọc Nhuận đường của Lăng Dung, thấy khắp vườn trồng đầy trúc, khiến cảm giác mát mẻ càng tăng thêm. Tình cảnh này vô cùng quen thuộc. Đôi mắt tôi bỗng mờ đi, khung cảnh này dường như vẫn chẳng khác gì hồi tôi mới được ân sủng. Dưới ánh hoàng hôn mờ mịt trong mùa hè nóng nực năm nào, tôi cùng My Trang đốt đèn hoa sen, thả vào từng vại nước trong Ngọc Nhuận đường mà tìm niềm vui thú.

    Thời thế đổi thay, hiện giờ sủng phi ngụ tại nơi này đã là Lăng Dung. Đi tới bên dưới bậc thềm làm bằng đá vân mẫu, hai bên dãy hành lang trước đây vốn đặt đầy những chậu hoa cúc mà My Trang yêu thích, hoa cúc vốn nở vào mùa thu nhưng vì khi đó, My Trang đắc sủng, lại rất thích hoa cúc, do đó Huyền Lăng liền sai thợ khéo ở vườn hoa trồng ra giống mới, vào mùa hạ vẫn có thể nở rộ như thường, thực là một cảnh tượng hiếm có. Lúc này, hoa cúc đã chẳng còn thấy đâu, một gã thái giám dẫn theo mấy tiểu cung nữ đi đổi chậu hoa mới, miệng quát: “Chỗ hoa cúc đó đem trả lại hết cho vườn hoa, đổi sang những loại hoa mà tiểu chủ thích, mỗi chậu đều phải sắp xếp cho thật chỉnh tề, dễ coi.”

    Tôi thoáng cảm thấy không vui, bèn nói với gã thái giám: “Chỗ hoa cúc đó đem trả lại cũng đáng tiếc, hãy mang hết đến Nghi Phù quán của bản cung đi.”

    Gã thái giám nhìn thấy là tôi thì vội vàng cười nịnh nọt. “Nương nương đã thích, nô tài tất nhiên sẽ vâng lệnh, có điều đám hoa đó đều nở không đúng mùa, lại chẳng có mùi thơm, chi bằng để nô tài bảo người đổi sang loại hoa thơm hợp vụ rồi đích thân mang tới chỗ nương nương…”

    Hắn tự cho rằng mình thông minh, cứ lải nhải mãi, hoàn toàn không phát hiện ra tôi đã biến hẳn sắc mặt. Vừa khéo lúc này Cúc Thanh vén rèm, bưng nước đi từ trong tẩm điện ra, nhìn thấy vẻ không vui của tôi thì rất nhanh đã đoán ra nguồn cơn sự việc, vội vàng trách mắng tên thái giám kia: “Nương nương bảo ngươi làm gì thì ngươi cứ làm theo là được, phận nô tài mà sao lại lắm mồm như thế, muốn bị cắt lưỡi hay sao?”

    Gã thái giám đó cả kinh, lập tức câm miệng, lủi thủi dẫn theo người ôm những chậu hoa rời đi.

    Tôi cười, nói: “Nha đầu ngươi trở nên mồm miệng sắc bén như vậy từ bao giờ thế?”

    Cúc Thanh khom người hành lễ với tôi, cười híp mắt, nói: “Nương nương cất nhắc nô tỳ đi hầu hạ tiểu chủ, nô tỳ không dám không dốc hết sức mình.” Thị chỉ tay về phía tấm rèm trúc, nói: “Tiểu chủ vừa mới ngủ dậy đấy!”

    Trong điện tịch mịch không có tiếng động, mùi An tức hương đốt đêm qua còn chưa tan hết, những tấm rèm trúc xung quanh tẩm điện đều được cuộn lên một nửa, ánh bình minh len qua đó chiếu vào những tia lờ mờ, ấm áp.

    Không có thị nữ hầu hạ kề bên, Lăng Dung không phát hiện ra là tôi đã tới, vẫn ngồi một mình trước chiếc bàn trang điểm cạnh cửa sổ, mái tóc dài buông xõa qua bờ vai thon, hãy còn chưa vấn. Những thứ đồ trang sức châu ngọc bày đầy trước mặt nhưng nàng ta không hề ngó đến, chỉ xoài người lên ô cửa sổ trổ hoa màu đỏ sẫm đang hé mở một nửa, khiến khuôn mặt nhỏ nhắn càng bừng lên nét đáng yêu, như một bông sen trắng thuần khiết trên mặt hồ buổi sớm.

    Lăng Dung mặc một chiếc áo ngủ rộng thùng thình, đôi mắt khép hờ mang đầy vẻ suy tư, thân thể càng toát ra nét mỏng manh, yếu đuối, như thể phải mang theo quá nhiều nỗi âu sầu. Hồi lâu sau, một giọt lệ chậm rãi rơi xuống từ khóe mắt nàng ta.

    Tôi lặng lẽ đi tới bên cạnh, khẽ cất tiếng hỏi: “Muội muội cớ sao lại khóc thế?”

    Lăng Dung nghe thấy giọng tôi thì đột ngột mở bừng đôi mắt trong veo, ánh mắt ngợp đầy vẻ kinh hãi, vội vàng lau đi giọt lệ bên khóe mi, miễn cưỡng nở nụ cười. “Tỷ tỷ đến sớm quá!”

    Tôi giữ lấy vai nàng ta, không để nàng ta đứng dậy, cười nói: “Muội muội cũng dậy sớm mà, chỉ e còn chưa tỉnh ngủ, vẫn đang lờ đà lờ đờ kìa.”

    Nàng ta kéo tay tôi, mời tôi ngồi xuống, khẽ nói: “Muội ngủ không ngon, đêm qua gặp ác mộng.”

    Tôi cầm chiếc quạt bằng ngà voi trên bàn lên ngắm nghía, phần cán quạt bạch ngọc được điểm xuyết bằng một con dơi màu đỏ chế thành từ mật lạp[1], một chiếc lá màu xanh chế thành từ phỉ thủy, một bông hoa màu hồng khảm trai, cực kỳ tinh xảo và trang nhã.

    [1] Một loại vật chất có nguồn gốc giống như hổ phách, nhưng không trong suốt.

    Tôi khẽ phe phẩy chiếc quạt, chậm rãi nói: “Muội muội có tâm sự mà lại giấu ta sao?”

    Nàng ta thoáng do dự, rốt cuộc cũng nói: “Chân công tử…”

    Sắc mặt tôi dần trở nên u ám, không nói gì thêm. Lăng Dung mặt đầy nét u sầu, ai oán. “Chân đại nhân thật sự nhẫn tâm như vậy sao? Dù gì Chân công tử cũng là con trai duy nhất của ông ấy…”

    Tôi kiên quyết lắc đầu. “Khi thê tử mang thai lại tới chốn thanh lâu, còn vì một nữ tử phong trần mà vứt bỏ vợ con, gây điều dị nghị. Cha ta không có đứa con như vậy, ta cũng không có người ca ca như vậy.” Tôi khó lòng che giấu nỗi thương tâm. “Huống chi ca ca cũng đã chính miệng nói rồi, thà cần Giai Nghi chứ không cần quan tước, gia đình. Tẩu tẩu đã quay về nhà mẹ đẻ, ca ca bất chấp luân thường đạo lý như vậy, thực không thể tha thứ nữa rồi!”

    Lăng Dung bi thương nói: “Như vậy thanh danh cả đời huynh ấy coi như đã bị hủy rồi!”

    Tôi cố kìm nén cơn giận, buồn bã cất tiếng: “Là tự tay ca ca hủy hoại đó thôi!”

    Cặp mắt Lăng Dung như bị phủ lên một lớp sương mù. “Sao tỷ tỷ còn giận công tử như vậy, huynh ấy cũng có nỗi khổ tâm của mình mà. Tỷ không cảm thấy huynh ấy rất đáng thương sao? Tỷ biết không, bây giờ mọi người trong cung đều chê cười huynh ấy, ai ai trong đô thành cũng coi thường huynh ấy, còn gọi huynh ấy là ‘bạc hạnh Chân lang[2]’, thần sắc lộ rõ vẻ khinh miệt. Tỷ tỷ là muội muội ruột thịt của huynh ấy, chẳng lẽ không lo lắng cho huynh ấy chút nào sao?” Lăng Dung nói liền một mạch, trong giọng nói còn kèm theo tiếng thở dốc

    [2] Có nghĩa là chàng Chân bạc tình.

    Tôi nhìn nàng ta chằm chằm, cất giọng nặng nề: “Không phải ta không lo lắng cho ca ca, mà huynh ấy căn bản không thèm để tâm tới sự lo lắng của ta. Vì một nữ tử phong lưu mà bỏ mặc phụ mẫu song thân đã dưỡng dục mình hai mươi năm trời, đòi bỏ người vợ kết tóc đang mang đứa con trong bụng, bất chấp luân thường đạo lý trên thế gian. Huynh ấy có từng lo lắng cho chúng ta không?” Trong đôi mắt tôi ánh lên những tia dò xét. “Không biết ca ca có từng lo lắng cho muội không?” Tôi nhìn đôi bờ môi hơi hé ra vì kinh ngạc của nàng ta, cười nói: “Có lẽ nữ tử tên Giai Nghi đó thật sự khá giống muội.”

    Lăng Dung cảm thấy hết sức bất an, không dám ngước mắt lên nhìn tôi, chỉ khẽ gọi: “Tỷ tỷ.”

    Tôi xoa nhẹ bờ vai nàng ta, giúp nàng ta kìm nén nỗi bất an trong lòng, nói: “Thế giới của nam nhân, nữ nhân chúng ta không thể thấu hiểu được đâu. Mặc kệ nữ tử đã khiến ca ca mê đắm kia là người như thế nào, tâm tư của chúng ta chỉ cần đặt ở hậu cung là được, việc bên ngoài chúng ta không có sức mà ngăn cản, bọn họ cũng chẳng thèm để ý đến chúng ta đâu.”

    Cảm giác bất lực của tôi dần thể hiện rõ ràng trong lời nói, thế giới của nam nhân, nữ nhân quả thực không thể nào thấu hiểu hết. Chẳng hạn như Huyền Lăng, tôi có từng hiểu y thực sự không? Và y có bao giờ thực sự hiểu được cảm giác của tôi? Chắc là không bao giờ.

    Cặp mắt Lăng Dung tràn ngập vẻ ngẩn ngơ, tựa như một chú hươu nhỏ vừa trải qua cơn kinh sợ, hồi lâu sau mới cất giọng yếu ớt đến nỗi cơ hồ không thể nghe thấy: “Muội chỉ lo cho huynh ấy thôi… Tỷ tỷ, muội lo cho huynh ấy.”

    Tôi không thể nói với nàng ta những sự thật thật giả giả trên thế gian này và nàng ta cũng không cần phải biết. Biết rồi thì sao đây? Lo lắng nhiều thêm sao? Đây không phải là việc mà nàng ta cần lo lắng, nàng ta là nữ nhân của Hoàng đế, sủng phi của Hoàng đế, suốt đời suốt kiếp đều là của Hoàng đế, sao có thể phân tâm đi lo lắng cho nam nhân khác được.

    Thế nhưng sự lo lắng của Lăng Dung lại khiến trái tim tôi xao động, tôi lặng lẽ bới cho nàng ta kiểu tóc nhiều tầng, lại cài thêm những thứ đồ trang sức châu ngọc, kèm cả hoa tươi, sau đó mới bình thản nói: “Hãy cười lên nào, như vậy Hoàng thượng mới thích muội.”

    Nàng ta chỉ lặng im, chậu hoa sơn chi trên bàn trang điểm đương lúc nở đẹp, mùi thơm dìu dịu của hoa xua tan mùi hương liệu nặng nề còn sót lại đêm qua, khiến người ta cảm thấy khá thoải mái. Lăng Dung thở dài than: “Thực ra tỷ tỷ biết rất rõ Hoàng thượng thích cái gì, không thích cái gì, tại sao vẫn thất sủng?”

    Tôi bện nốt cho nàng ta lọn tóc cuối cùng, khẽ mỉm cười, nói: “Bởi vì tuy ta biết nhưng có lúc lại không làm được.”Lăng Dung nhìn tôi không chớp mắt. “Vậy còn My tỷ tỷ thì sao, điều tỷ tỷ biết, tỷ ấy nhất định cũng biết, tại sao tỷ ấy cũng thất sủng?”

    Tôi hơi cau mày, hờ hững đáp: “Bởi vì tỷ ấy không cần.”

    Lăng Dung không hỏi gì thêm, tự đi chọn váy áo mặc vào, nghiêm túc ngồi xuống, thần sắc đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh. Trước lúc đi, tôi nói: “Muội yên tâm, chuyện gì rồi cũng sẽ qua thôi.”

    Lăng Dung trịnh trọng gật đầu, đột nhiên nở một nụ cười rạng rỡ, quyến rũ vô cùng.

    6

    Những ngày tháng trong Thái Bình hành cung nhàm chán vô cùng, thời gian trở nên thừa thãi, vô số thứ quy củ vụn vặt trong cung đều đã bị tạm thời bãi bỏ. Các phi tần theo tới đây không nhiều, chỉ có Hoàng hậu, Hoa Phi, Đoan Phi, Kính Phi, Hân Quý tần, Tào Tiệp dư, Điềm tần, Thận Tần, tôi và Lăng Dung, còn Tần Phương nghi mà độ trước đã từng theo tới thì sớm đã biến mất trong ký ức của mọi người, cũng chẳng có ai nhắc đến.

    Có lẽ vì đã quá lâu không có sủng phi nào mới, sau khi sống trong hành cung được một tháng, Huyền Lăng liền phong một thị nữ tên Kiều thị làm Canh y, vài ngày sau lại tiến phong làm Thái nữ, có vẻ khá sủng ái. Các thị nữ trẻ tuổi xinh đẹp trong cung không ai không mong ngóng có một ngày được bay lên cành cây cao, hóa thân thành phượng hoàng, còn vì thế mà dốc hết tâm cơ. Từ xưa đến nay, những người từ cung nữ trở thành cung tần cũng không phải là ít, chẳng hạn như Thuận Trần Thái phi, thân mẫu của Bình Dương Vương, ban đầu vốn chỉ là một cung nữ chuyên việc thêu thùa, may vá, hay như Diệu Âm nương tử trước đây.

    Đây vốn chỉ là một việc hết sức bình thường, cũng chẳng có mấy ai để ý, nhưng khi Tào Tiệp dư đến nói với tôi rằng Kiều thị là cung nữ tùy thân trong cung của Hoa Phi, tôi liền bắt đầu lưu tâm.

    Tào Tiệp dư nói: “Hoa Phi nương nương sợ ngày sau lại thất sủng, cộng thêm bây giờ đã mất đi sự giúp đỡ của Lệ Quý tần, cho nên sớm đã có ý bồi dưỡng chân tay. Chỉ là Tần Phương nghi vô dụng, mà Hoa Phi cũng không còn muốn trọng dụng những nữ tử con nhà quan lại nữa, vì sợ sau này bị phân chia sự sủng ái quá nhiều không thể chế ngự, do đó mới chọn ả Kiều thị này.”

    Gian thủy các dùng để tránh nóng hiện giờ cực kỳ mát mẻ và kín đáo, tôi khẽ búng nhẹ ngón tay, hỏi: “Kiều thị là người thế nào? Tào tỷ tỷ có từng chú ý đến không?”

    Nàng ta khẽ mỉm cười, vuốt nhẹ ống tay áo, nói: “Nương nương muốn nghe lời nói thực lòng sao?” Thấy tôi chỉ nhìn những chiếc lá sen xanh biếc đầy trên mặt hồ, nàng ta lại tiếp: “Hoa Phi nương nương quá nôn nóng, chỉ e lần này đã thất sách rồi!”

    Tôi “ồ” lên một tiếng, mắt hơi nheo lại, quay qua nhìn nàng ta. “Tại sao lại nói vậy?”

    Tào Tiệp dư đáp: “Kiều thị tuy có chút thông minh vặt, nhan sắc cũng vào hạng khá nhưng chẳng qua chỉ là kẻ tầm thường, khó mà làm nên việc lớn. Hoa Phi nương nương muốn dựa vào cô ả để chia sẻ bớt sự ân sủng của Hoàng thượng với nương nương và An Tiểu viện, thực chẳng phải hành động sáng suốt.”

    Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một ả Kiều thị lại có thể cự lại được chúng tôi, chỉ khẽ thở dài một tiếng: “Coi như Hoa Phi đã mưu cùng kế cạn rồi!”

    Tào Tiếp dư hơi nhếch khóe môi, nở nụ cười như có như không, hờ hững nói: “Nếu là trước đây, ả ta nhất định không cho phép các thị nữ có nhan sắc bên cạnh mình tùy tiện tiếp cận, vậy mà bây giờ lại…”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Thời thế nay đã khác rồi!”

    Thời gian cứ thế chậm rãi trôi đi. Hành cung không giống với hoàng cung, tôi lại vì lời răn của Thái hậu nên không dám tùy tiện tham gia vào việc triều chính, do đó, việc của Nhữ Nam Vương rốt cuộc chỉ nghe ngóng được mấy chi tiết vụn vặt. Cuộc sống trong hành cung an nhàn mà thư thái, lại không có những quy củ ước thúc, do đó, tôi cũng thoải mái hơn nhiều, coi đây là một đợt nghỉ dưỡng thể xác và tinh thần vốn đã vô cùng mỏi mệt.

    Ngày đầu tháng Bảy, trong cung tổ chức tiệc đêm. Hoàng hậu ngồi bên trái, tôi và Lăng Dung cùng ngồi bên phải, Huyền Lăng ngồi ở chính giữa, cùng ngắm cảnh ca múa bên dưới. Đang vào hồi say sưa, sứ giả mà Huyền Lăng phái đi thăm hỏi Thái hậu đã quay về, lập tức bẩm báo rằng Thái hậu thân thể khỏe mạnh. Huyền Lăng hết sức vui vẻ, vội vàng nói: “Mẫu hậu thân thể an khang, trẫm cũng có thể yên tâm được rồi!” Sau đó liền ra lệnh trọng thưởng cho ngự y đã chữa bệnh cho Thái hậu.

    Lăng Dung mỉm cười, nâng chén lên, nói: “Thái hậu có thể khỏe lại như vậy, Hoàng thượng ngoài thưởng cho ngự y ra còn cần thưởng cho một người khác nữa mới đúng.”

    Huyền Lăng thoáng suy nghĩ một chút, hỏi: “Là ai vậy?”

    Lăng Dung cười, nói: “Hoàng thượng quên là Thẩm Dung hoa vẫn luôn tận tâm bầu bạn bên cạnh Tháiậu sao?” Thế rồi đưa mắt liếc qua phía sứ giả.

    Sứ giả lập tức cung kính thưa: “Thẩm Dung hoa chăm sóc Thái hậu rất mực chu đáo, tỉ mỉ, thường xuyên tự tay làm mọi việc, đến thuốc cũng tự mình nếm thử trước rồi mới dâng lên cho Thái hậu, Thái hậu hết lời khen Thẩm Dung hoa hiếu thảo.”

    Huyền Lăng giật mình bừng tỉnh, vui vẻ nói: “Quả đúng là vậy, Thẩm Dung hoa ngày đêm hầu hạ, công lao không nhỏ chút nào.” Rồi lập tức truyền chỉ: “Hãy truyền ý chỉ của trẫm tới Tử Áo Thành, phong Dung hoa Thẩm thị làm Tiệp dư tam phẩm, bổng lộc tăng gấp đôi.”

    Hoàng hậu mỉm cười nói: “Hoàng thượng thưởng phạt công minh, hiếu thuận với mẫu hậu, đúng là tấm gương cho người trong thiên hạ.”

    Huyền Lăng tỏ vẻ tươi cười, hết sức vui vẻ, quay sang nói với Lăng Dung: “Cũng là nhờ Dung Nhi nhắc nhở”, rồi lại nói: “Dung Nhi ở ngôi tiểu viện đã lâu, khiêm tốn nhún nhường, thực là hiếm có. Giờ hãy phong làm Tần chính ngũ phẩm đi.”

    Lăng Dung vội vàng đứng dậy tạ ơn. Hoàng hậu chợt lên tiếng: “Dùng chữ nào làm phong hiệu đây?”

    Tôi rót cho Huyền Lăng một chén rượu đầy, y đang có tâm trạng tốt, liền ngẩng đầu uống cạn, tiện miệng nói: “Cứ dùng họ làm hiệu là được.”

    Lăng Dung ngây ra, trên mặt thoáng qua nét không vui nhưng rất nhanh đã khôi phục nụ cười, lần nữa dịu dàng tạ ơn.

    Hoàng hậu và tôi đưa mắt nhìn nhau, không kìm được đều thoáng ngây người. Xưa nay khi phi tần tiến phong, phàm là Quý nhân, Tần, Quý tần, Phi, Phu nhân hay Tứ phi, tất cả đều có phong hiệu và lấy đó làm niềm vinh dự, ngạo nghễ với mọi người. Duy chỉ có những phi tần không đắc sủng hoặc gia thế hàn vi mới phải dùng họ làm phong hiệu. Lăng Dung không phải không đắc sủng, vậy việc không có phong hiệu chỉ có thể là vì xuất thân hèn kém của nàng ta.

    An Tần, danh vị này vốn khá đáng tự hào nhưng chỉ vì sự khác biệt ở một chữ phong hiệu mà niềm vinh quang đã mờ nhạt hẳn đi. Lòng tôi thầm nguội lạnh, chỉ có thể dùng ánh mắt an ủi Lăng Dung, chuẩn bị dâng lời với Huyền Lăng.

    Hoa Phi đưa mắt thoáng liếc qua tôi, nở một nụ cười rạng rỡ, nói với Huyền Lăng: “Thực ra chữ ‘An’ trong họ An rất tốt, lấy ý từ câu ‘bình an hỷ lạc’, tốt hơn so với phải nghĩ phong hiệu khác nhiều.” Nói rồi liền liếc qua phía Lăng Dung vẻ đầy giễu cợt.

    Lăng Dung chỉ giả bộ như không nhìn thấy. Tôi suy nghĩ một chút, cảm thấy không cần thiết phải nói gì thêm, Hoa Phi đã mở miệng, Huyền Lăng tất nhiên sẽ không từ chối. Hơn nữa, đây cũng không phải việc gì lớn, e rằng ngay đến bản thân Lăng Dung cũng không muốn vì một phong hiệu mà khiến Huyền Lăng có ấn tượng không tốt về mình. Nhưng lúc này, tâm trạng nàng ta chắc chắn vô cùng khó chịu. Liệu nàng ta có oán hận gia thế và xuất thân của mình, lấy đó làm điều đáng xấu hổ không? Với tính tình nhạy cảm của nàng ta, chắc sẽ khó mà tiếp nhận nổi. Nhưng tất cả những điều này, Huyền Lăng đều không hề để tâm đến, y chỉ làm mọi điều theo trực giác của mình, vì bỗng nhớ ra Lăng Dung không hề có xuất thân hiển hách.

    Bữa tiệc diễn ra tới đây, với Lăng Dung mà nói đã không còn gì thú vị nữa.

    Tôi khẽ thở dài, thế nhưng trong đáy lòng lại có một tia mừng vui mà đến bản thân cũng thấy khó hiểu, thì ra địa vị của Lăng Dung trong lòng Huyền Lăng chỉ có vậy mà thôi.

    Về sau, Hân Quý tần từng nhắc tới việc này trước mặt tôi, còn tỏ ra vừa căm phẫn vừa vui mừng trước tai họa của người khác: “Muội muội tuy giao hảo với An Tần nhưng ta cũng không ngại nói thẳng với muội muội… Vị An muội muội đó của muội đúng là biết tỏ ra mình ngoan ngoãn quá. Thẩm Tiệp dư vất vả lắm mới chỉ được tăng một cấp, vậy mà cô ta chỉ vì nhắc đến công lao của Thẩm Tiệp dư cũng được tấn thăng một cấp, muội nói xem là ai đắc ý nào?” Nàng ta lấy khăn tay, lau nhẹ chỗ phấn trên cánh mũi mình, vui mừng ra mặt, nói: “May mà Hoàng thượng anh minh, tuy cho cô ta lên làm Tần nhưng ngay tới phong hiệu cũng không ban. Ta thấy trên đường về, cô ta đã giận đến phát khóc đấy, thế mà thường ngày vẫn giả bộ như không có chuyện gì xảy ra.”

    Thời tiết nóng nực làm người ta muốn đổ mồ hôi, tôi cầm một viên băng lên, bỏ vào miệng, chờ nó từ từ tan chảy, sau đó mới nói: “Hân tỷ tỷ hà tất phải nói về An muội muội mãi, thường ngày muội ấy cũng có đắc tội gì với tỷ đâu. Muội ấy không có phong hiệu vốn đã thương tâm rồi, sao tỷ tỷ còn phải oán trách thêm.”

    Hân Quý tần vừa cắn hạt dưa vừa nói: “Thẩm Dung hoa được tấn thăng làm tiệp dư ta tâm phục khẩu phục. Nếu không vì những cuộc phong ba năm xưa, chỉ e nàng ta sớm đã được đứng vào hàng quý tần rôi. Có điều, ta không vừa mắt cái bộ dạng èo uột của An Tần, lúc nào cũng ra vẻ đáng thương, như là phải chịu rất nhiều ấm ức vậy. Thế mà muội muội còn có thể gần gũi được với cô ta…” Hân Quý tần xưa nay chưa hề thích Lăng Dung, khi có đông người cũng không hay trò chuyện với nàng ta nhưng đây khó có thể coi là sự đố kỵ, mà giống như sự chán ghét tự đáy lòng thì đúng hơn.

    Các nữ tử xuất thân hào môn thường xem thường những nữ tử xuất thân hàn môn, do đó có thể nó sự đối lập giữa hào môn và hàn môn không chỉ ở triều đường, mà còn có ở chốn hậu cung.

    Hân Quý tần lại nói tiếp: “Hoa Phi tuy bá đạo, ngang ngược, nhưng lần này vì việc phong hiệu mà mở miệng cũng không phải là quá đáng. Quãng thời gian An Tần đắc sủng kia quả là trời giận người oán, suốt ngày độc chiếm Hoàng thượng, đến cái bóng của người, chúng ta cũng không nhìn thấy. Thật chẳng như lúc Hoàng thượng sủng ái muội muội và Thẩm Tiệp dư, người còn thường tới cung của bọn ta ngồi chơi.”

    Tôi nói: “Tỷ tỷ nặng lời rồi. Hoàng thượng đặt toàn bộ tâm ý lên người muội ấy, tất nhiên khó tránh khỏi có phần bỏ sót chúng ta. Tỷ tỷ hãy mở rộng tấm lòng, mọi người kỳ thực đều phải trải qua những chuyện như vậy mà.”

    Hân Quý tần khẽ “hừ” một tiếng, thể hiện sự xem thường với Lăng Dung rồi nói tiếp: “Lẽ nào muội muội quên việc ngày đó, cô ta thừa dịp muội sẩy thai, thất sủng để quyến rũ Hoàng thượng sao? Sau khi muội và Điềm Tần sẩy thai, Hoàng thượng gần như không tới thăm bọn muội lần nào, còn không phải vì bị cô ta mê hoặc…”

    Tôi không muốn nghe tiếp, bèn cất tiếng cắt ngang: “Tỷ tỷ, những chuyện đã qua rồi hà tất phải nhắc lại làm gì nữa?”

    Hân Quý tần trề môi, nói: “Muội muội tuy không muốn nhắc đến, nhưng có ai mà không bất bình thay cho bọn muội đâu.”

    Nàng ta không nói tiếp nữa, bắt đầu kể về một số chuyện thú vị gần đây khi Thục Hòa Công chúa học vẽ. Nàng ta thường ngày vốn nói nhiều, lại mau mồm mau miệng, thành ra cứ nói suốt một tràng dài. Tôi nghiêng đầu lắng nghe nhưng tâm tư thì lại có chút mơ màng, thì ra tia mừng vui khó hiểu xuất hiện trong bữa tiệc đêm hôm đó lại có nguồn gốc từ đây.

    Tôi bất giác sinh lòng tự giễu, thì ra tôi cũng chỉ là một nữ tử bình thường với lòng dạ hẹp hòi, dễ đố kỵ và canh cánh trong lòng vì những chuyện đã qua.

    Thế nhưng, điều khiến người ta khó hiểu là sau cơn phong ba nho nhỏ về phong hiệu đó, sự sủng ái của Huyền Lăng với Lăng Dung đã dần không còn mãnh liệt như trước, chỉ hơn một chút so với người thường. Tình hình ở hậu cung bắt đầu từ Lăng Dung một mình được sủng ái biến thành phải chia sẻ với tôi và Hoa Phi, sau đó là trăm hoa đua nở, tất cả cùng phô bày sự quyến rũ của mình. Có rất nhiều phi tần vốn bị ghẻ lạnh đã lâu nay lại được thấy mặt rồng, lần lượt được đưa tới Thái Bình hành cung tránh nóng.

    Mà những phi tần hiện đang đắc sủng có quá nửa là xuất thân từ danh gia vọng tộc, chẳng hạn như Đoan Phi, Hoa Phi, Lý Tu dung, tôi, Hân Quý tần, My Trang, Uông Mục Tần và Triệu Vận Tần. Đối mặt với biến cố này, Lăng Dung tuy có chút buồn bã nhưng rốt cuộc cũng hờ hững, không tỏ vẻ gì.

    Trong Thái Bình hành cung nhất thời xuất hiện cảnh muôn hoa đua sắc, náo nhiệt vô cùng.

    Sáng sớm hôm ấy, tôi dẫn Lưu Chu tới hồ Phiên Nguyệt lấy một ít nước sương đậu trên hoa sen về dùng cho việc đun nước pha trà. Những lá sen biêng biếc phủ khắp nơi, hoa sen nhô lên, từng gợn sóng nhỏ đung đưa ánh vàng. Đi thuyền giữa hồ, cảm giác như đang dạo bước trên con đường sâu thẳm tịch mịch, thỉnh thoảng lại hái một bát sen, bóc hạt sen ra ăn, ấy cũng là một lạc thú của tôi mỗi ngày.

    Chiếc thuyền nhỏ rẽ nước trôi đi, tôi chợt nhớ ra Đoan Phi ngụ tại Vũ Hoa các ngay bên bờ hồ Phiên Nguyệt, lòng thầm máy động, bèn nói: “Theo ta tới thăm Đoan Phi nương nương.”

    Còn chưa đến nơi, từ xa đã nghe thấy tiếng đàn tỳ bà văng vẳng, uyển chuyển du dương. Vừa nhìn thấy Đoan Phi, tôi lập tức vỗ tay cười rộ, vui vẻ nói: “Thực không ngờ nương nương lại có tài gảy tỳ bà hay như vậy, nương nương giấu bản lĩnh kĩ quá đấy!”

    Nàng ta nhìn thấy tôi bước vào thì chỉ mỉm cười, gật đầu, khúc nhạc kết thúc liền thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ, nói: “Năm xưa Thuần Nguyên Hoàng hậu chính tay dạy ta gảy tỳ bà, chỉ tiếc rằng ta thiên tư không đủ, chỉ học được ba, bốn phần mười tài nghệ mà thôi, chẳng đáng để khoe khoang với đời.”

    Sự ngưỡng mộ và sợ hãi của tôi với Thuần Nguyên Hoàng hậu bất giác lại tăng thêm một tầng, Đoan Phi gảy tỳ bà điêu luyện như vậy mà mới chỉ bằng được ba, bốn phần mười tài nghệ của Thuần Nguyên Hoàng hậu, thật chẳng hay tiếng đàn của Thuần Nguyên hoàng hậu phải xuất thần nhập hóa đến mức nào?

    Tôi chỉ khẽ cười: “Nương nương có tài nghệ như vậy, chẳng trách lại được Hoàng thượng yêu mến.”

    Đoan Phi khẽ cười hờ hững, bảo tôi ngồi xuống, nói: “Chẳng giấu gì muội, Hoàng thượng đến chỗ ta chỉ là để nghe tỳ bà mà thôi, với thân thể yếu ớt này của ta, căn bản không có sức hầu hạ Hoàng thượng qua đêm.” Nụ cười của nàng ta dần ẩn vào hai chiếc lúm đồng tiền. “Hiện giờ trong Thái Bình hành cung có quá nhiều phi tần, ai cũng được sủng ái, sao muội muội còn có nhã hứng đến chỗ ta vậy?”

    Tôi khẽ nhấp một ngụm trà, mỉm cười nói: “Sự ân sủng nhất thời thì có tính là gì, tỷ tỷ thông minh rất mực, tất nhiên có thể đoán ra đạo lý bên trong.” Tôi nhấm nháp dư vị trà còn sót lại, nói tiếp: “Mùa thu năm nay lại có đợt tuyển tú ba năm một lần, không biết bao nhiêu người mới nữa sẽ vào cung, mấy việc hiện thời thực chẳng đáng nhắc tới.”

    Đôi mắt nàng ta sáng trong như dòng nước suối, đong đưa qua lại. “Muội muội thường được bầu bạn bên Hoàng thượng, biết về tình hình triều chính, do đó mới có thể điềm tĩnh, ung dung như vậy.”

    Tôi khiêm nhường nói: “Muội chẳng qua là hạng nữ lưu, có thể biết điều gì được, chỉ yên phận giữ mình mà thôi. Không phải nương nương cũng điềm tĩnh trước mọi việc sao?”

    Đoan Phi mỉm cười không nói, lại ngẩn ngơ nhìn bầu trời xanh biếc không một gợn mây, tôi chậm rãi chọn một củ ấu bóc ăn, tự tìm lấy niềm vui thú cho mình. Hồi lâu sau, Đoan Phi mới lại nhìn tôi, nói: “Chuyện An Tần chẳng qua chỉ là sự khởi đầu mà thôi, chắc hẳn ngày sau chúng ta cũng không thể đặt mình ra ngoài mọi việc được.”

    Tôi thở dài, than: “Có kẻ lên ắt phải có người xuống, Hoàng thượng cố ý không ban phong hiệu cho An Tần chẳng qua là để xoa dịu cơn giận của các nữ tử hào môn trong hậu cung về việc muội ấy đắc sủng bấy lâu mà thôi.”

    Đoan Phi cũng thở dài ngơ ngẩn, kế đó liền hờ hững nói: “Việc hậu cung cũng như triều chính, vốn chẳng có gì khác biệt.”

    Tôi khẽ mỉm cười như chưa hề nghe thấy, chỉ có cảm giác mùa hạ này sao mà dài đến thế, dài đến vô chừng, tiếng ve sầu kêu liên miên, như thể vĩnh viễn chẳng có điểm dừng.
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 13: Sương lạnh phủ nơi nơi
    Rời khỏi Vũ Hoa các của Đoan Phi, trong tay tôi có thêm một giỏ củ ấu đỏ mọng, mỗi củ đều chĩa ra hai cái sừng nhọn hoắt với phần thịt non mềm, thơm ngậy. Lời của Đoan Phi vẫn văng vẳng bên tai: “Củ ấu tuy ngon nhưng nhất đinh phải bẻ gãy hai cái sừng, lại lột đi phần vỏ cứng thì mới có thể nếm phần thịt bên trong, bằng không sẽ dễ bị thương, được chẳng bằng mất.”

    Tôi mỉm cười, con người chính là như vậy, muốn có được thứ gì thì trước tiên phải né tránh chỗ lợi hại của nó đã.

    Mặt trời đỏ rực lên cao, bầu trời lại trong xanh vạn dặm, sự nóng nực bất giác càng tăng thêm mấy phần. Tôi sợ nhất cái nóng, trên người đã bắt đầu rỉ mồ hôi, liền cùng Lưu Chu chọn một con đường râm mát bóng cây mà quay về Nghi Phù quán.

    Đi tới chỗ Ngọc Đái Đồng Âm, hai bên đường đều ngợp bóng ngô đồng, phủ kín mặt đất, khiến người ta có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Nơi đây cảnh sắc tươi đẹp, lại không nóng nực, tôi bèn dắt tay Lưu Chu vừa ngắm cảnh vừa chậm rãi bước đi, lúc ngẩng đầu lên thì chợt nhìn thấy Hoa Phi dẫn theo Tào Tiệp dư và Kiều Thái nữ, phía sau còn một đám cung nữ và thái giám, đang rầm rộ bước lại.

    Hoa Phi vốn đang trò chuyện hăng say, nói cười giả lả, vừa nhìn thấy tôi, sắc mặt lập tức trở nên lạnh lùng.

    Từ sau khi ả ta được khôi phục ngôi vị, tôi cố hết sức tránh gặp mặt chính diện và phát sinh xung đột với ả ta. Tôi vì ả ta mà mất con, thất sủng, ả ta vì tôi mà mất ngôi, thất sủng, nỗi thù hận dành cho nhau đều khắc cốt ghi tâm, không thể phai nhòa.

    Chỉ là lúc này đường hẹp gặp nhau, địa vị của tôi lại thấp hơn ả ta một mức, không thể né tránh coi như không gặp, mà tôi lại từng đồng ý với Huyền Lăng, vì đại cục sẽ tạm thời nhẫn nhịn.

    Thế là cố kìm nén tâm trạng có chút rối loạn, tôi cung kính nhún gối hành lễ. “Xin thỉnh an Hoa Phi nương nương!” Tào Tiệp dư và Kiều Thái nữ bên cạnh ả ta cũng hơi khom người chào hỏi.

    Hoa Phi không bảo tôi đứng dậy ngay, trong ánh mắt thoáng vẻ dò xét và lo nghĩ. Thời gian cứ chậm rãi trôi qua, bầu không khí xung quanh hết sức tĩnh lặng, đến tiếng chim hót cũng chẳng thể nghe thấy. Tôi nhớ tới việc phải quỳ lâu trong Mật Tú cung ngày xưa, trong lòng không kìm được căm hận, cắn chặt môi cố gắng kiềm chế không để bản thân lộ ra vẻ hận thù, ngoài mặt vẫn giữ nguyên bộ dạng điềm nhiên, hờ hững.

    Hồi lâu sau, ả ta mới nói: “Đứng dậy đi!”

    Ả ta chăm chú nhìn tôi, thần sắc trong ánh mắt vô cùng phức tạp, có căm hận, có kiêng dè, có chán ghét, có coi khinh, có khiêu khích, tất cả như hòa làm một. Ả ta cười tủm tỉm, nói: “Ngươi có từng nghĩ đến có ngày bản cung được khôi phục ngôi vị như hôm nay không?”

    Tôi giữ nguyên thần sắc khiêm nhường tránh qua một bên, điệu bộ kính cẩn, nói với giọng bình tĩnh: “Nương nương hậu phúc vô biên, thần thiếp há có thể đoán biết trước được.” Rồi tôi lại khom người hành lễ với ả ta lần nữa, nói: “Còn chưa kịp chúc mừng nương nương được khôi phục ngôi vị, thần thiếp xin có lời chúc tại đây.”

    Ả ta lạnh lùng nói: “Thôi khỏi! Bản cung không dám nhận cái lễ này của Hoàn Quý tần.” Ả ta đưa mắt liếc tôi, vẻ chán ghét lộ rõ qua từng lời nói, sau đó chợt nhíu đôi mày dài. “Ngươi càng ngoan ngoãn, bản cung lại càng cảm thấy ngươi đáng sợ.”

    Tôi không hề tỏ vẻ không vui, chỉ cười nhạt, nói: “Hoa Phi nương nương nói đùa rồi, lẽ nào nương nương thích tần thiếp bất kính với nương nương, trực tiếp nói lời phạm thượng?” Tôi hơi cúi đầu, nói tiếp: “Thần thiếp không dám tùy ý mạo phạm nương nương đâu.”

    Vẻ khinh miệt của ả ta không hề che giấu, lộ rõ nơi đầu mày cuối mắt. “Quý tần thực khách sáo quá, không dám mạo phạm thì cũng mạo phạm rồi, bản cung tuyệt đối không quên việc ngày xưa đâu.”

    Giọng nói của ả ta vô cùng sắc bén, mọi người xung quanh thấy khí thế ấy thì đều câm bặt, không dám ho he.

    Tôi vẫn giữ thái độ đúng mực, cất giọng cứng đờ: “Nương nương dạy dỗ rất phải, tần thiếp xin được thường xuyên lắng nghe lời dạy bảo của nương nương.”

    Hoa Phi thấy tôi tỏ ra như vậy thì thực không có chỗ nào để bắt bẻ, không kìm được giận dữ nói: “Ngươi muốn thường xuyên lắng nghe, nhưng bản cung lại không muốn thường xuyên nhìn thấy khuôn mặt này của ngươi.”

    Đương lúc Hoa Phi tức giận, bên cạnh ả ta chợt có một giọng nữ vang lên: “Nương nương chớ nên tức giận, người là tấm thân ngàn vàng, tức giận vì một cung phi nhỏ bé thực không đáng chút nào. Trên thế gian này sang hèn phân rõ, sao có việc người tôn quý phải tức giận vì kẻ hèn mọn, như thế thì thực là xem trọng kẻ hèn mọn ấy quá.”

    Những lời này vô cùng cay nghiệt, hơn nữa, còn hiển nhiên có ý nhằm vào tôi. Tôi thầm kinh ngạc, với lập trường của Tào Tiệp dư ắt hẳn sẽ không nói ra những lời như thế, vậy thì… Khi ngẩng lên, tôi quả nhiên nhìn thấy một nữ tử ăn mặc theo lối cung tần bước ra, chính là Kiều Thái nữ vừa được tiến phong. Chỉ thấy cô ả thân hình nhỏ nhắn, dung nhan cũng khá yêu kiều, vì có xuất thân là thị nữ hầu cận của Hoa Phi nên khá được Huyền Lăng sủng ái. Lúc này, cô ả đang ra vẻ rất mực cung kính đỡ tay Hoa Phi, trên mặt là nụ cười nịnh nọt, tựa như một người thị nữ rất biết nghe lời.

    Lưu Chu cả giận, sắc mặt biến đổi hẳn, định thay tôi phản bác lời của Kiều Thái nữ. Tôi vội vàng kéo nàng ta lại, nở một nụ cười hiền hòa, nói: “Đây không phải là Kiều muội muội đang được Hoàng thượng sủng ái sao? Những lời vừa rồi của Kiều muội muội rất có lý, trên thế gian này sang hèn phân rõ, muội muội đã nói năng hùng hồn như vậy, nhất định là xuất thân danh môn, phải làm một Thái nữ hạng bét đúng là đáng tiếc, bản cung nhất định sẽ giúp muội muội dâng lời với Hoàng thượng, người như muội muội ít nhất cũng phải ở vào ngôi tần hoặc là quý nhân thì mới xứng với thân phận.”

    Cô ả vốn xuất thân cung nữ, nghe tôi bề ngoài thì khen nhưng thực ra là ngầm giễu cợt, không khỏi đỏ bừng mặt, hậm hực trừng mắt nhìn tôi.

    Tôi cười lạnh một tiếng, quả đúng là tôi cần nhịn Hoa Phi nhưng Hoa Phi cũng cần biết mà phải kiêng dè tôi mấy phần. Kiều Thái nữ một lòng muốn nịnh nọt Hoa Phi cũng đành nhưng không ngờ lại không biết trời cao đất dày mà dám cất lời bất kính với tôi như thế.

    Tào Tiệp dư vốn chỉ khoanh tay đứng nhìn, thấy tình hình này liền vội mỉm cười, bước lên, nói: “Hoàng thượng mời nương nương và tỷ muội chúng ta tới Ngọc Kính Minh Cầm quán nghe kịch, nghe nói đã chọn vở Nương tử quan mà nương nương thích nhất, chúng ta hà tất phải lãng phí thời gian dây dưa với người khác giữa trời nóng nực thế này.”

    Hoa Phi khẽ “hừ” một tiếng, dắt Kiều Thái nữ nghênh ngang rời đi. Tôi khẽ nói: “Lưu Chu, chúng ta về thôi!”

    Tôi vừa về đến nơi, Hoán Bích lập tức dẫn người ra đón, lại thay cho tôi bộ đồ mặc trong nhà, rót một chén trà lạnh đưa tới, nói: “Nô tỳ thấy bên ngoài nóng quá mà nương còn chưa về, đang định phái người đi xem thử xem sao đấy!”

    Tôi cười, bảo: “Chỉ ở trong hành cung thôi, có thể có việc gì được?”

    Lưu Chu hậm hực kể với Hoán Bích: “Cô không biết đấy thôi, hôm nay đúng là tức chết, không ngờ lại gặp phải Hoa Phi và ả Kiều Thái nữ vừa mới đắc sủng kia, khiến nương nương nhà chúng ta phải chịu ấm ức quá chừng!”

    Hoán Bích ngạc nhiên hỏi: “Chuyện là thế nào vậy? Bây giờ nương nương đang rất được lòng Hoàng thượng, bọn họ không biết kiêng dè chút nào sao?”

    Lưu Chu cười lạnh một tiếng, giận dữ nói: “Hoa Phi thì thôi cũng đành, xưa nay luôn gây khó dễ cho nương nương, đây là việc mà ai cũng biết. Nhưng nực cười thay cho ả Kiều Thái nữ kia, chỉ có xuất thân cung nữ mà cũng dám nói lời giễu cợt với nương nương nhà chúng ta.” Nói rồi liền trề môi phàn nàn với tôi: “Nương nương cũng dễ tính quá! Chúng ta không cần để ý tới Hoa Phi, lẽ nào cứ để mặc cho ả Kiều thị đó nghênh ngang nói càn sao? Nếu mà là nô tỳ, vừa rồi nhất định nô tỳ sẽ tát cho ả hai cái thật mạnh, rồi bẩm lên Hoàng thượng, đưa ả vào Bạo thất một phen cho biết mặt.”

    Tôi chỉ tay vào Lưu Chu mà quay sang nói với Hoán Bích: “Ngươi xem đó, nha đầu này mồm miệng càng lúc càng lợi hại rồi, cứ thế này thì về sau ai mà nói lại được.” Kế đó bèn ngừng cười, nghiêm túc nói với Lưu Chu: “Tính ngươi cũng thật bộp chộp, nhưng cứ nóng nảy như vậy thì có thể làm được việc sao? Ta đã dặn các ngươi là đừng cãi vã với Hoa Phi, bây giờ lại nhắc nhở thêm một câu nữa, đó là đừng đấu khẩu với người bên cạnh ả ta, cứ ứng phó qua loa là được… Thời gian sau này còn dài, vội vã làm gì chứ?”

    Lưu Chu cắn chặt răng, hậm hực nói: “Kiều Thái nữ cất lời giễu cợt nương nương ngay trước mặt mọi người như vậy, lẽ nào nương nương dễ dàng buông tha cho ả thế sao?”

    Tôi hái một bông sơn chi trắng muốt trong chậu lên mân mê ngắm nghía, cất tiếng hỏi Hoán Bích: “Ngươi nghĩ sao?”

    Hoán Bích thoáng im lặng rồi trả lời: “Chi bằng hãy nhẫn nhịn, chờ ngày sau báo thù.”

    Tôi hít một hơi thật sâu, khẽ nở nụ cười: “Lúc này thì quả đúng là cần phải nhẫn nhịn, nếu ta lập tức trở mặt, ra tay với ả, người ngoài ắt sẽ nói ta không có khí độ của một phi tần, mà trong thời gian này, ta chớ nên trêu chọc Hoa Phi. Hơn nữa, ta cũng không thèm ra tay với hạng người như Kiều thị, có điều nhịn Kiều thị không có nghĩa là không có hành động gì với người khác.” Tôi vứt bông hoa trong tay xuống bàn, nói tiếp: “Sở dĩ Kiều Thái nữ dám ngông cuồng như vậy là vì có Hoa Phi chống lưng, các ngươi nghĩ rằng chỉ dựa vào ả mà dám cất lời như vậy sao? Ả chẳng qua chỉ là một kẻ tiểu tốt không đáng nhắc tới mà thôi.”

    Hoán Bích có chút ngập ngừng: “Ý của nương nương là…”

    Tôi cài bông hoa lên vạt áo, ung dung hỏi: “Trong bài Tiền xuất tái thứ sáu, Đỗ Phủ đã nói thế nào?”

    Lưu Chu thoáng trầm ngâm, buột miệng nói: “Bắn người bắn ngựa trước tiên, bắt giặc bắt tướng đương nhiên công thành!”

    Tôi gỡ bông sơn chi xuống, “cạch” một tiếng, bẻ nó gãy làm hai nửa, vứt vào trong chiếc bình hoa tráng men lớn đặt trên bàn, nở một nụ cười lạnh lẽo.

    Đương lúc chiều tối, làn gió mát từ mặt hồ thổi vào, mang theo mùi thơm thanh tân của hoa sen và những làn hơi nước ẩm ướt. Bánh xe gió chầm chậm xoay đều, những ống tay áo rộng viền mỏng thêu hoa lúc bay lên khi hạ xuống. Vì tôi sợ ồn ào nên sớm đã có thái giám dùng sào trúc dán keo ở đầu bắt sạch đám ve sầu cả ngày phát ra tiếng kêu khó chịu, trong Nghi Phù quán ngập tràn mùi thơm của hoa huệ và hoa nhài, khung cảnh tĩnh lặng khiến lòng người thư thái.

    Tôi nằm trên chiếu trúc mà vẫn còn cảm thấy hơi nóng liền thay sang bộ đồ the mỏng tang, lại bỏ hết những thứ đồ trang sức nặng nề xuống. Tinh Thanh và Bội Nhi đứng một bên phe phẩy quạt cho tôi, Hoán Bích thì đi chuẩn bị hoa quả dầm băng, thỉnh thoảng lại trò chuyện với tôi đôi câu.

    Đang tán gẫu, tôi ngẩng lên, nhìn thấy Huyền Lăng đi vào, vội vàng đứng dậy hành lễ. “Hoàng thượng!”

    Y dùng hai tay đỡ tôi dậy, nói: “Nàng quả là tiêu dao tự tại thật.”

    Tôi với y dắt tay nhau ngồi xuống, đoạn cười hì hì, nói: “Thần thiếp cũng chẳng có việc gì làm, tranh thủ nghỉ ngơi một chút thôi!” Tôi cầm một miếng dưa hấu đã cắt sẵn lên đưa tới bên môi ý, nói: “Bây giờ thời tiết mát mẻ hơn rồi, Hoàng thượng vừa từ Thủy Lục Nam Huân điện tới đây sao?”

    Y hơi nhếch khóe môi, nở nụ cười hờ hững, cắn miếng dưa hấu, nói: “Ta vừa từ Phi Vũ quán tới đây.”

    Ngọc Nhuận đường lúc trước vốn là nơi ở của My Trang nhưng bây giờ Lăng Dung đã ở đó. Lần này, My Trang và mấy vị phi tần khác cùng tới, Hoàng hậu liền an bài cho nàng ta tới Phi Vũ quán.

    Tôi thấy Huyền Lăng có vẻ khá hờ hững, sắc mặt còn thoáng nét không vui, bèn dè dặt mỉm cười, cất tiếng hỏi dò: “Bánh hoa quế bột củ sen ở chỗ My tỷ tỷ là tuyệt nhất, ăn vào mùa này cũng rất hợp, Hoàng thượng đã nếm thử chưa?”

    Y nhìn tôi, cười, nói: “Bánh hoa quế bột củ sen đúng là rất ngọt, đáng tiếc người đã không còn ngọt nữa. Mỗi lần trẫm đến, cứ ba lần thì có hai lần nàng ấy thoái thác không muốn gần gũi với trẫm.” Y khẽ lắc đầu, nói tiếp: “Chẳng lẽ nàng ấy vẫn còn canh cánh trong lòng việc năm xưa trẫm trách nhầm nàng ấy sao?”

    Tôi nghe ra ý trách móc trong lời của y, vội vàng trịnh trọng quỳ xuống, khấu đầu thưa: “Xin Hoàng thượng ngàn vạn lần chớ nên trách My tỷ tỷ, đều tại thần thiếp không tốt.”

    Huyền Lăng hỏi với giọng khó hiểu: “Trẫm đâu trách gì nàng ấy, sao nàng lại đi nhận lỗi trước thế này?”

    Tôi nói: “My tỷ tỷ sao có thể vì chuyện năm xưa mà oán trách Hoàng thượng được.” Tôi thầm suy xét xem nên dùng lời lẽ thế nào, sau đó mới mỉm cười, nói tiếp: “Kỳ thực đều tại lúc trước thần thiếp nói nhiều lời không đúng. My tỷ tỷ từ nhỏ đã giao hảo với thần thiếp, lại cùng nhau vào cung nên cả hai đều hy vọng có thể mãi mãi bầu bạn bên Hoàng thượng. My tỷ tỷ xưa nay luôn lo lắng cho thân thể của Hoàng thượng, vì nếu sủng phi nhiều rồi, ít nhiều gì cũng gây ảnh hưởng cho long thể, do đó khi trò chuyện riêng với thần thiếp, tỷ ấy tỏ ra khá lo lắng. Hoàng thượng gần đây dường như thương yêu thần thiếp và An muội muội nhiều hơn một chút, do đó, My tỷ tỷ quyết định học theo Hiền Phi thời cổ, chỉ cầu Hoàng thượng long thể an khang chứ không tranh giành ơn mưa móc, thế nên mới có hành động như vậy.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Vậy ra Thẩm Tiệp dư rất quan tâm tới trẫm.”

    Tôi gật đầu, thưa: “Dạ, việc này thì thần thiếp không bằng được My tỷ tỷ.”

    Y hơi nhướng mày, ra vẻ hứng thú hỏi: “Sao lại nói vậy?”

    Tôi thấy y một tay đỡ má nằm nghiêng người trên chiếu trúc, dưới ánh trăng dìu dịu trông phi phàm xuất chúng vô cùng, không khỏi đỏ bừng hai má, thấp giọng thưa: “Vì thần thiếp không làm được như Hiền Phi, thần thiếp muốn ở bên Hoàng thượng nhiều một chút.”

    Huyền Lăng vui mừng ra mặt, ôm lấy tôi vào lòng. “Hiền Phi tuy tốt nhưng có nhiều rồi thì thành ra mất đi cái lạc thú chốn phòng the. Không được như nàng…”

    Tôi khẽ đẩy y, thẹn thùng nói: “Hoàng thượng thật không biết thẹ thần thiếp mắc cỡ lắm!”

    Huyền Lăng hôn lên má tôi, nói: “Chúng ta cứ nói chuyện của chúng ta thôi, để ý tới người khác làm gì.”

    Tôi thấy y có tâm trạng vui vẻ, không còn giống như lúc đến, bèn cầm bát hoa quả dầm băng cùng ăn với y, đồng thời dịu dàng khuyên nhủ: “My tỷ tỷ tính tình thẳng thắn, khi nói năng hay làm việc khó tránh khỏi đắc tội với kẻ tiểu nhân, nếu ngày sau có người nào nói xấu tỷ tỷ trước mặt Hoàng thượng, xin Hoàng thượng hãy soi xét tinh tường, chớ nên vội trách tội.”

    Huyền Lăng đưa tay xoa nhẹ bờ vai tôi, dải tua dài, mảnh trên chiếc bông tai bằng bạc khảm trân châu của tôi chạm vào cánh tay y, mang tới cảm giác lành lạnh. Y quấn một lọn tóc của tôi vào ngón tay, khẽ nói: “Nàng sợ người khác nói xấu Thẩm Tiệp dư trước mặt trẫm, nhưng lại không biết rằng hôm nay đã có người nói xấu nàng với trẫm trước rồi.”

    Tôi thầm cảm thấy lạnh nhưng bình tĩnh lại ngay, mỉm cười hỏi: “Là Hoa Phi nương nương sao?”

    Y nhìn tôi vẻ thương yêu, khẽ xoa bờ má tôi, nói: “Trẫm biết nàng đã phải cố sức nín nhịn thế nào!”

    Tôi cố gắng gật đầu thật mạnh, vành mắt hơi ươn ướt. “Hoàng thượng sẽ không tin đâu, đúng không?”

    Y nắm chặt bàn tay tôi, đáp: “Đúng vậy!”

    Tôi tựa người vào ngực y, trong lòng bất chợt trào dâng cảm giác ấm áp lạ thường. Huyền Lăng ôm chặt lấy tôi. “Nhưng Hoa Phi tính tình hống hách, không đạt được mục đích quyết không chịu ngơi tay. Hôm nay nàng ta tới chỗ trẫm tố c nàng bất kính với nàng ta, còn cùng Kiều Thái nữ khóc lóc không ngừng. Nàng ta nhất định sẽ chĩa mũi nhọn vào nàng đến cùng đấy.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, chỉ hỏi: “Vậy Hoàng thượng định thế nào?”

    Trong mắt y lóe lên tia sáng, rất nhanh đã biến mất giữa màn đêm âm u vô tận, khẽ ghé tai tôi thì thầm vài câu.
    Tôi im lặng một lát, chợt buồn bã nói: “Thần thiếp vào cung đã được ba năm, mùa thu tới lại là đợt tuyển chọn tú nữ, Hoàng thượng có người mới như hoa bên cạnh, nhất định sẽ nhanh chóng quên thần thiếp thôi.”

    Y cất giọng vô cùng trịnh trọng: “Dù chốn hậu cung có muôn ngàn giai lệ, trong lòng Tứ lang vẫn chỉ có duy nhất một Hoàn Hoàn thôi, không ai có thể thay thế được.” Y nói với vẻ rất nghiêm túc, tôi nghe mà thầm chấn động, tựa đầu vào ngực y, ngước đầu ngắm trời sao, chỉ thấy dải ngân hà bao la, rực rỡ nhưng lại xa biết bao nhiêu, duy có y là ở gần bên.

    Tôi khẽ thở dài buồn bã. “Chỉ là huynh trưởng của thần thiếp càng lúc càng đi lại, gần gũi với phe phái Nhữ Nam Vương hơn rồi.”

    Mấy ngày sau đó, Hoa Phi và Kiều thị có vẻ hết sức đắc sủng, Huyền Lăng thường xuyên qua đêm ở chỗ bọn họ. Hoa Phi thì không sao nhưng với Kiều thị, các phi tần đều ôm lòng oán giận.

    Buổi tối hôm đó, Huyền Lăng mở tiệc bên ngoài Thủy Lục Nam Huân điện, trên đình đài lầu các đều treo đèn lồng khiến mặt hồ Phiên Nguyệt nhuốm màu đỏ tươi như môi các nữ tử lúc say rượu, ánh nước lóng lánh đong đưa, diễm lệ vô cùng.

    Các hậu phi có mặt, bắt đầu từ Hoàng hậu lần lượt nâng chén chúc mừng Huyền Lăng, khung cảnh chìm trong sự hòa hợp khó miêu tả bằng lời. Hoa Phi ngồi cạnh Huyền Lăng, tươi cười lả lướt, phong thái sảng khoái, xinh đẹp tuyệt trần, dường như những ánh hào quang trong điện đều bị ả ta đoạt lấy hết cả. Cặp mắt tôi bỗng trở nên mờ ảo, khung cảnh như trở lại năm xưa, khi ả ta chưa từng gặp phải bất cứ trắc trở gì, vẫn là một sủng phi phong quang hết mực. Tôi đưa tay áo lên che miệng, uống một ngụm rượu, dường như chỉ trong khoảnh khắc, chúng tôi đã phải trải qua vô số chìm nổi bấp bênh.

    Tôi cố trấn định tâm thần, ngước mắt nhìn đi nơi khác rồi đứng dậy quay qua phía Huyền Lăng, nói: “Hôm nay các tỷ muội trong cung đều ở cả đây, thần thiếp xin kính Hoàng thượng, Hoàng hậu một chút, chúc Hoàng thượng, Hoàng hậu thánh thể an khang, phúc hưởng muôn đời.”

    Hoàng hậu gật đầu, mỉm cười thư thái. Huyền Lăng cũng rất vui vẻ, nâng chén một hơi uống cạn. Chợt thấy Hoa Phi nhếch mép nở nụ cười hờ hững, ánh mắt liếc xéo về phía Kiều Thái nữ.

    Kiều Thái nữ hiểu ý, lập tức đứng dậy, đi tới trước mặt Huyền Lăng, cười quyến rũ, nói: “Hoàng thượng vạn phúc an khang. Rượu mạnh hại người, thần thiếp đã cẩn thận chọn một đĩa hoa quả ngon, toàn bộ đều là tinh phẩm tuyệt vời, xin dâng lên để Hoàng thượng tráng miệng.”

    Huyền Lăng nhón lấy một quả nho trắng sữa, bỏ vào miệng, hờ hững nói: “Không tệ.”

    Tôi đưa mắt liếc nhìn Kiều Thái nữ, cười nói: “Kiều muội muội đã ‘cẩn thận’ chọn hoa quả cho Hoàng thượng, vậy mà Hoàng thượng lại chẳng khen không ngớt lời, đủ thấy muội muội còn cần ‘cẩn thận’ suy xét tâm ý của Hoàng thượng thêm nữa.”

    Kiều Thái nữ đang đắc sủng, sao chịu nỗi những lời như vậy, khuôn mặt lập tức trở nên tím tái, lúng túng nói: “Nương nương dạy rất phải!” Nhưng kế đó vẫn không chịu nhận thua, lại tiếp: “Tần thiếp mới ở bên cạnh Hoàng thượng hầu hạ được hơn một tháng, thực có rất nhiều sai sót, mong được nương nương chỉ dạy thêm cho. Có điều, tần thiếp tuy không hiểu thánh ý như nương nương, nhưng với mọi việc của Hoàng thượng đều luôn cẩn thận hết mực.” Sau đó, lại quay sang cúi đầu hành lễ với Huyền Lăng, nói: “Thần thiếp ngày đêm đều lo nghĩ cho Hoàng thượng, xin Hoàng thượng minh giám.”

    Huyền Lăng khẽ “ồ” một tiếng, nói: “Nàng yên tâm, trẫm biết!”, rồi liền chăm chú đưa mắt nhìn tôi, nói tiếp: “Có trẫm ở đây, không ai dám nói nàng như vậy.”

    Huyền Lăng xưa nay luôn hậu đãi tôi, rất ít khi lên tiếng vì một cung tần mới được thăng tiến như vậy. Tôi sa sầm nét mặt, miễn cưỡng đổi sang vẻ tươi cười, ôn tồn nói: “Muội muội nói rất đúng, tâm ý của Hoàng thượng có ai mà không phải từ từ suy xét từng chút, tất cả đều dựa vào một tấm lòng nóng bỏng với Hoàng thượng đấy thôi!” Nụ cười của tôi càng thêm nồng đượm. “Có điều, muội muội phải cố gắng lên đấy!” Tôi vạch ngón tay tính toán, ba chiếc hộ giáp bằng vàng khảm ngọc lấp lánh ánh sáng khiến mấy chiếc hộ giáp bằng đồng mạ vàng lốm đốm mấy chấm phỉ thúy của Kiều Thái nữ ảm đạm hẳn đi. “Bây giờ đã là tháng Bảy rồi, đến đầu tháng Tám thánh giá sẽ về cung, mà dịp Trung thu chính là đợt tuyển chọn tú nữ ba năm một lần, tới khi đó, người mới xuất hiện nhiều vô kể, muội muội tha hồ mà bận rộn.”

    Tuy tôi và Kiều Thái nữ chuyện trò náo nhiệt nhưng Huyền Lăng vẫn không hề để ý đến, chỉ chuyên tâm tán gẫu với Hoa Phi, thỉnh thoảng lại nở một nụ cười thân mật. Tôi chỉ giả bộ như không nhìn thấy, lại liếc qua phía My Trang, thấy tỷ ấy đang nắm chặt chén rượu trong tay, nhìn Hoa Phi đến ngơ ngẩn.

    Lời phản kích của Kiều Thái nữ nhanh chóng vang lên, ả ta khẽ cười nhưng ánh mắt lại dữ dằn mà cao ngạo: “Tần thiếp ít tuổi, mới chỉ mười sáu, có rất nhiều việc còn chưa hiểu được. Quý tần nương nương lớn hơn tần thiếp hai tuổi, lại được Hoàng thượng yêu mến, tất nhiên có thể dễ dàng chỉ dạy cho những tỷ muội có tuổi tác xấp xỉ với tần thiếp rồi.”

    Sau khi lớp người mới kia vào cung, tuổi tác của tôi tất nhiên không thể coi là trẻ nữa. Dù rằng trong gương vẫn là một nhan sắc thanh xuân, nhưng cặp mắt long lanh kia đã nhuốm màu trần tục, không còn sự trong veo của thời thiếu nữ. Mà trong cung, ai cũng kiêng nhắc đến tuổi già, kiêng nhắc đến sự thất sủng. Dùng hết mọi thủ đoạn chẳng qua cũng chỉ muốn làn da của mình mịn màng hơn một chút, nõn nà hơn một chút, để có thể được ánh mắt quyến luyến của đấng quân vương dừng lại lâu hơn.

    Lời của Kiều Thái nữ câu nào câu nấy đều chạm vào điều đại kỵ của các nữ tử trong cung, tôi thu lại nụ cười, vẻ khinh miệt hiện rõ nơi khóe mắt, cao giọng nói: “Quả đúng là vậy. Nghe nói người chăm chỉ thường không dễ già, trước đây muội muội làm việc vất vả ở chỗ Hoa Phi nương nương, nhất định là chăm chỉ hơn bản cung. Huống chi muội muội có thể hầu hạ cho Hoa Phi nương nương vui vẻ đến mức sẵn lòng dâng muội lên cho Hoàng thượng, đủ thấy muội giỏi quan sát ý bề trên thế nào. Nếu là bản cung thì tuyệt đối không làm được như vậy.”

    Lời này vừa dứt, khung cảnh lập tức trở nên tĩnh lặng, chỉ có thể nghe thấy tiếng đàn sáo ở xa cùng tiếng gió thổi vi vút trên mặt hồ.

    Mọi người trong cung đều biết Kiều Thái nữ xuất thân cung nữ, địa vị thấp hèn, lại vì cô ả rất được ân sủng mà tiếng oán than sớm đã vang khắp nơi nơi. Mà Kiều Thái nữ vốn kỵ nhất việc bị người ta nói đến xuất thân của mình, xưa nay luôn lảng tránh nhưng lại không ngăn được miệng của mọi người trong cung.

    Quả nhiên, sắc mặt Kiều Thái nữ lúc đỏ lúc trắng bệch, thở phì phò một hồi, cuối cùng bất ngờ “oa” một tiếng, phủ phục xuống bàn khóc nức nở.

    Bầu không khí nhất thời trở nên gượng gạo, tôi vẫn giữ nguyên vẻ coi thường, lạnh lùng đưa mắt nhìn cô ả. Các phi tần đều ngưng uống rượu cười đùa, ánh mắt nhất loạt nhìn về phía tôi và Kiều Thái nữ, thần sắc mỗi người một khác.

    Huyền Lăng xoay người, sắc mặt có chút lạnh lùng, chỉ đưa mắt liếc qua nhìn tôi và Kiều Thái nữ, dửng dưng không nói một lời.

    Hoa Phi bật cười khúc khích, người còn chưa động đậy, mấy viên ngọc treo trên búi tóc đã va vào nhau, phát ra những âm thanh giòn tan, nghe vui tai vô cùng. Ả ta đưa mắt liếc qua phía tôi, mỉm cười, nói với Huyền Lăng: “Hoàng thượng ngồi yên không để ý tới sao?”

    Huyền Lăng vẫn giữ nguyên vẻ dửng dưng như chẳng buồn để tâm, quay sang hỏi Hoàng hậu: “Hoàng hậu thấy thế nào?”

    Hoàng hậu cười, đáp: “Nữ nhân tụ tập nhiều, khó tránh khỏi có sự hơn thua về miệng lưỡi, hôm nay mọi người đang vui, lại uống hơi quá chén, nhất định không có ý gì đâu, đợi lát nữa tan tiệc, thần thiếp sẽ gọi bọn họ lạirò chuyện một chút.” Hoàng hậu nói như vậy hiển nhiên là có ý chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ bỏ qua.

    Huyền Lăng vốn đã có ba phần ý say, nghe Hoàng hậu nói vậy thì đột nhiên biến sắc. “Hoàng hậu thường ngày thay trẫm quản lý hậu cung như vậy sao? Chẳng trách trong hậu cung lại không ngớt xuất hiện phong ba!”

    Hoàng hậu thấy Huyền Lăng định phát tác, vội vàng quỳ xuống hành lễ. “Hoàng thượng bớt giận, đều là lỗi của thần thiếp.”

    Hoàng hậu vừa khuỵu gối, mọi người lập tức quỳ xuống theo. Tôi cũng không để ý tới cơn giận với Kiều Thái nữ nữa, vội vàng quỳ xuống đất.

    Huyền Lăng đã ngà ngà say, Hoa Phi vội vàng đỡ lấy y, nói: “Hoàng thượng cẩn thận.”

    Huyền Lăng gạt tay ả ta ra, cất tiếng trách cứ Hoàng hậu: “Nàng có biết lỗi của nàng là ở chỗ nào không? Đến việc các nữ tử trong cung tranh cãi với nhau mà cũng không thể dẹp yên, há chẳng phải là bất tài?”

    Hoàng hậu rất ít khi thấy Huyền Lăng nói chuyện với mình bằng giọng như vậy, thân thể bất giác hơi run rẩy, vội dập đầu xuống đất. Kiều Thái nữ biết việc này vốn là do sự tranh chấp giữa tôi và cô ả mà ra, sợ đến nỗi không dám khóc nữa.

    Hoàng hậu không ngừng thỉnh tội, nhưng Huyền Lăng chẳng buồn để tâm, lạnh lùng gọi: “Hoàn Quý tần.”

    Tôi cả kinh, vội lê gối lên phía trước, sợ hãi cúi đầu thưa: “Có thần thiếp.”

    Y lạnh lùng nói: “Đi đi!”

    Sau khi uống rượu, thân thể tôi nóng rực, tâm trạng lúc này chắc hẳn là ngẩn ngơ và sợ hãi, vội cất tiếng gọi y: “Hoàng thượng…”

    Y cầm lấy bàn tay Hoa Phi, xoay người, chẳng buồn để tâm đến. My Trang vốn chỉ hờ hững khoanh tay đứng nhìn, lúc này thấy tình hình không hay, rốt cuộc đã không kìm được cất tiếng: “Ý của Hoàng thượng là…”

    Huyền Lăng nâng chén rượu lên, Hoa Phi ân cần rót cho y một chén Lê hoa bạch đầy, khẽ nở nụ cười rạng rỡ. “Hoàng thượng xưa nay luôn công chính nghiêm minh, tất nhiên sẽ không thiên vị ai cả.”

    Huyền Lăng đưa ngón tay tới miết nhẹ bờ má trắng nõn nà của ả ta, chẳng buồn ngẩng lên, chỉ cất giọng lạnh lùng: “Hoàn Quý tần Chân thị thất lễ trước mặt vua, nói năng ngạo mạn, trái với y đức của một phi tần, ngày mai hãy đưa tới Vô Lương điện đóng cửa suy nghĩ lỗi lầm, không có lệnh triệu không được ra ngoài.”

    Nước mắt tôi không kìm được chậm rãi tuôn rơi. Vô Lương điện nằm tại trung tâm của hồ Phiên Nguyệt, bốn phía chẳng có đường đi, chỉ có thể lui tới bằng thuyền nhỏ, chính là nơi mà Chiêu Hiến Thái hậu dùng để giam lỏng Thư Quý phi năm xưa, cực kỳ hẻo lánh, đã lâu không có người ở. Hơn nữa trong điện không có xà, dù quá đau khổ, muốn treo cổ tự vẫn cũng chẳng được. Khi trước, Thư Quý phi bị nhốt ở đó từng phải chịu không ít khổ sở.

    Tôi đưa tay níu lấy ống tay áo y. “Thần thiếp hầu hạ Hoàng thượng đã được ba năm, tuy có chỗ thất lễ nhưng xin Hoàng thượng hãy niệm tình thần thiếp xưa nay luônết mực tận tâm mà tha thứ cho thần thiếp lần này.” Tôi thút thít nói: “Thần thiếp không dám tái phạm nữa đâu.”

    Huyền Lăng gạt bàn tay tôi ra, khuôn mặt lộ rõ vẻ chán ghét. “Vừa rồi khi nói chuyện với Kiều thị, không phải nàng nói ra những lời cao ngạo lắm sao? Ngay trước mặt trẫm mà nàng còn dám nói ra những lời đố kỵ như vậy, ở sau lưng sẽ còn điêu ngoa tới mức nào, trẫm đúng là đã nhìn nhầm nàng rồi!”

    Tôi biện bạch: “Thần thiếp đâu có… Hoàng thương biết mà, thần thiếp xưa nay vốn mau mồm mau miệng.” Y không hề nghe tôi giải thích. Tôi làm ra vẻ vừa giận dữ vừa hối hận, chỉ biết cúi đầu khóc lóc.

    Kính Phi đánh bạo đứng ra cầu xin giúp tôi: “Hoàng thượng liệu có thể…”

    Thế nhưng nàng ta còn chưa kịp nói xong thì đã bị Hoa Phi cắt ngang: “Hoàng thượng đã ban ý chỉ, lẽ nào Kính Phi còn muốn phản bác?”

    Huyền Lăng cũng đưa mắt liếc nhìn Kính Phi, hờ hững nói: “Vô Lương điện rộng rãi, Kính Phi có phải cũng muốn tới đó không?” Kính Phi cả kinh, chỉ đành nhìn tôi với vẻ hết cách, kế đó cúi rạp đầu xuống.

    Hoa Phi nở nụ cười hết sức hài lòng, khẽ cất tiếng: “Kiều Thái nữ đã phải chịu ấm ức rồi…”

    Huyền Lăng hiểu ý, nụ cười lập tức bao phủ lên khuôn mặt vốn đầy vẻ khó chịu, ôn tồn nói: “Vậy hãy tấn phong Kiều thị là Tuyển thị tòng thất phẩm đi.”

    Huyền Lăng nháy mắt ra hiệu một cái, Lý Trường lập tức bước lên phía trước. “Mời nương nương, nô tài sẽ cho người đưa nương nương đến Vô Lương điện ở tạm đôi ngày.”

    Tôi biết đã không thể vãn hồi, liền vái một cái thật sâu, nói: “Thần thiếp cáo lui.”

    Không ai dám cầu xin giúp tôi, vừa rồi Hoàng hậu bị liên lụy, Kính Phi cũng bị trách phạt, tất nhiên đã khiến mọi người kinh sợ. Trong mắt bọn họ, lần này tôi đã thất bại hoàn toàn.

    Hoa Phi mỉm cười, nói: “Hoàn Quý tần đi cẩn thận.”

    Kiều Thái nữ, không, bây giờ đã là Tuyển thị rồi, cô ả sớm đã đổi khóc thành cười, bộ dạng hết sức đắc ý. “Tần thiếp bất tài, chỉ có thể thay nương nương bầu bạn bên Hoàng thượng thôi. Quý tần đi cẩn thận nhé!”

    Tôi lẳng lặng đứng dậy, bước chân có chút loạng choạng và yếu ớt. My Trang buồn bã ngoảnh đầu đi, cố hết sức che giấu nỗi lưu luyến trong mắt, có điều tuy tỷ ấy ngoảnh đầu rất nhanh nhưng tôi vẫn kịp nhìn thấy ánh mắt đó.

    My Trang, rốt cuộc vẫn quan tâm đến tôi.

    Nghi Phù quán sớm đã trở nên hỗn loạn, thỉnh thoảng lại có tiếng khóc lóc của các cung nữ và thái giám vang lên, chỉ có Cận Tịch là dẫn theo Lưu Chu, Hoán Bích giúp tôi thu dọn đồ đạc, bên ngoài thì có Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử đã chuẩn bị sẵn xe ngựa. Tôi ngẩn ngơ ngồi bên cửa sổ, khẽ phe phẩy cây quạt trong tay.

    Lưu Chu sắp xếp xong mấy bộ đồ quan trọng mặc trong mùa hè, lại cầm lấy một chiếc váy dài mặc trong mùa thu, do dự hỏi Cận Tịch: “Cái này có cần mang theo không?”

    Hoán Bích trừng mắt nhìn cô nàng một cái, vội vàng nói: “Tất nhiên là không cần rồi. Hoàng thượng có thể giận nương nương nhà chúng ta mấy ngày được chứ, chẳng bao lâu nữa nhất định sẽ lại đón nương nương về thôi.”

    Giọng nói tuy nhỏ nhưng tôi vẫn nghe thấy, bèn chậm rãi nói: “Cứ mang theo đi, còn cả áo mùa đông nữa…”

    Hoán Bích chần chừ nói: “Nương nương…”

    Cận Tịch chỉ khẽ lắc đầu, cầm lấy chiếc lược sừng tê và hộp đựng đồ phấn son, trang sức mà tôi thường dùng trên bàn trang điểm, khẽ cất tiếng thở dài. “E là Hoàng thượng thực sự tức giận rồi, nếu không sao lại bắt nương nương tới Vô Lương điện chứ. Nương nương đang yên đang lành sao lại chọc giận Hoàng thượng đến mức này?”

    Tôi cất tiếng ngăn Cận Tịch, nói tiếp: “Đâu phải là đang yên đang lành, có kẻ cố tình thêm dầu vào lửa, chỉ sợ thiên hạ không loạn đó thôi!”

    Đương lúc thu dọn đồ đạc, Lý Trường bước vào, sau khi thỉnh an tôi liền nói: “Nương nương, xe và thuyền đã chuẩn bị xong, Vô Lương điện cũng đã được quét dọn sạch sẽ, xin nương nương khởi hành thôi.”

    Tôi không nói gì, chỉ lặng im, một lát sau mới khẽ hỏi: “Hoàng thượng bây giờ đang ở đâu?”

    Lý Trường cụp đôi mắt vẫn luôn nguyên vẻ kính cẩn của y xuống, nói: “Hoa Phi nương nương.”

    Tôi hiểu ra, khẽ thở dài một tiếng, cất bước ra ngoài trong bộ đồ mộc mạc, ngoài sân hoa lá rơi đầy.

    Thế nhưng vừa mới buông rèm xe xuống, một giọng nói trong trẻo, mềm mại chợt vang lên: “Chân tỷ tỷ xin dừng bước.”
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 14: Tuyết chưa rơi
    Ngồi trong xe, tôi chậm rãi vén rèm, thò đầu ra ngoài hỏi: “Là ai vậy?”

    Dưới ánh tà dương, những cánh chim mỏi đều đã về rừng, mặt sông lóng lánh màu đỏ rực, ngập tràn cảm giác tang thương, tựa như đang đè nặng lòng người. Lăng Dung thân hình gầy guộc, chỉ dắt theo Bảo Quyên, ôm một bọc hành lý nhỏ, nói: “Tỷ tỷ xin dừng bước.”

    Tôi buồn bã mỉm cười, lắc đầu, nói: “Muội đến đây tiễn ta sao? Vào lúc này hà tất phải đến tận nơi đưa tiễn như vậy, thực bắt mắt quá, cuộc sống của muội sau này ắt sẽ khó khăn hơn.”

    Nụ cười của Lăng Dung nhu mì và hiền dịu, rất phù hợp với thân hình liễu yếu đào tơ của nàng ta. Chậm rãi bước lại gần, Lăng Dung khẽ cất tiếng: “Muội không đến để tiễn tỷ tỷ.” Nàng ta ôm chặt bọc hành lý nhỏ trước ngực, nói tiếp: “Muội đã bẩm báo với Hoàng thượng, xin được cùng tỷ tỷ đến ở tại Vô Lương điện rồi!”

    Tôi chấn động không thôi, trong lòng dâng trào một cảm xúc khó tả. “Muội nói gì cơ?”

    Vẻ mặt Lăng Dung hững hờ mà bình tĩnh. “Hoàng thượng đã đồng ý để muội và tỷ tỷ cùng tới Vô Lương điện rồi.”

    Nỗi cảm động như dòng thủy triều tràn khắp toàn thân, sự chấn động của tôi chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, rất nhanh đã tỉnh táo trở lại. “Không được nói năng bừa bãi. Vô Lương điện là nơi nào chứ, nếu muội cùng ta đến đó thì tiền đồ trong cung coi như chấm dứt luôn rồi!” Sắc mặt đầy vẻ buồn bã, tôi nhìn nàng ta, nói tiếp: “Huống chi lần này ta tới đó, bề ngoài thì nói là để suy nghĩ lỗi lầm, kỳ thực cũng không rõ lúc nào có thể quay về, chưa biết chừng có thể phải ở lại Vô Lương điện suốt đời. Muội hà tất phải cùng ta tới đó mà chịu khổ.”

    Đêm ngày Mười lăm tháng Bảy, vì tôi ăn mặc hơi đơn sơ mà có chút không chịu nổi những làn gió đêm giá lạnh. Tôi đột nhiên nhớ ra, hôm nay là ngày Tết Quỷ trong truyền thuyết, ngay đến gió đêm cũng có chút âm u, mang theo một chút oán khí và sát khí. Sắc mặt Lăng Dung có chút thê lương, mà ngoài cái vẻ thê lương ấy còn thấp thoáng đôi phần nhẹ nhõm khó mà diễn tả bằng lời. Giữa làn gió rít, giọng nàng ta vang lên không được rõ ràng cho lắm: “Lăng Dung gần đây đã đắc tội với quá nhiều phi tần, tỷ tỷ lại có ơn nặng như núi với muội, so với việc tiếp tục ở lại trong cung mà lục đục đấu đá, chịu đủ nỗi ghẻ lạnh khổ sở, muội thà đi bầu bạn với tỷ tỷ, hai bên chiếu cố lẫn nhau.”

    Tôi khẽ thở dài, gió thổi lọn tóc mai cọ vào bờ má, mang tới cảm giác hơi ngứa ngáy, khóe mắt bất giác đỏ hoe.

    Lời của Lăng Dung quả là thực,ừ sau khi được sắc phong làm tần, sự ân sủng của Huyền Lăng đối với nàng ta kém hẳn trước kia, dăm ba ngày chẳng được gặp lấy một lần. Hơn nữa, vì nàng ta chưa có phong hiệu chính thức nên tuy được liệt vào hàng chính ngũ phẩm nhưng về mọi mặt đều kém mấy người Điềm Tần một bậc. Mà sau chuyện sắc phong đó, mọi người trong cung ngoài đố kỵ cũng hiểu được rằng tình cảm của Huyền Lăng với nàng ta chỉ có vậy mà thôi, lại thấy giờ đây Huyền Lăng đối xử với nàng ta như vậy, thế là càng ngấm ngầm giễu cợt không thôi, khiến cuộc sống của nàng ta quả thực chẳng dễ chịu gì.

    Lăng Dung thấy tôi vẫn hơi do dự thì buồn bã nói: “Tỷ tỷ hãy thành toàn cho muội đi!” Nàng ta đưa bọc hành lý tới trước mặt tôi, có chút ương bướng nói: “Ngay cả hành lý muội cũng đã chuẩn bị xong xuôi rồi, nếu tỷ tỷ không đồng ý, muội sẽ không về Ngọc Nhuận đường nữa, chỉ có thể ở lại Nghi Phù quán này trông coi phòng ốc cho tỷ tỷ thôi.”

    Nàng ta chịu làm như vậy cũng có thể coi như là bằng hữu chung hoạn nạn với tôi rồi. Mà đi với tôi, đối với nàng ta mà nói, cũng không phải là không có lợi.

    Tôi khẽ nắm bàn tay Lăng Dung, đón lấy bọc hành lý, nói: “Chỉ cần muội muội không ngại Vô Lương điện hoang vu, vắng vẻ, không có người hầu hạ là được.”

    Lăng Dung mỉm cười, vẻ mừng rỡ trên mặt khó mà giấu giếm. “Muội chỉ cần có tỷ tỷ ở bên thôi!”

    Vô Lương điện không hề xa, ở trên một hòn đảo giữa hồ Phiên Nguyệt, sau khi đổi sang thuyền nhỏ, trong khoảng thời gian hai tuần hương là có thể tới nơi. Có điều, ngoài đi thuyền thì không còn cách nào khác để tới Vô Lương điện.

    Rời thuyền lên đảo, chúng tôi cùng tới Vô Lương điện. Đây là tòa cung điện mà Hoàng đế khai quốc xây dựng làm nơi nghỉ mát cho Hoàng hậu, bên trong không có xà, chỉ có bốn ô cửa sổ lớn nên tầm nhìn rất rộng, mà những thứ nhìn thấy được ngoài cỏ cây xanh mướt chỉ có nước hồ mênh mang, dập dềnh sóng biếc.

    Hoán Bích ngó nghiêng khắp trong ngoài một lượt, không kìm được mừng rỡ, thở phào một hơi, nói: “Tuy không thể so được với Nghi Phù quán nhưng may mà không đến mức cũ nát, hoang tàn quá!” Nói xong liền cùng Cận Tịch, Lưu Chu, Bảo Quyên và Tiểu Doãn Tử bắt tay vào làm việc, đặt các thứ rương hòm vào phòng ngủ.

    Lăng Dung bước vào, mừng rỡ nói: “Muội còn tưởng Vô Lương điện sớm đã tồi tàm, tan hoang lắm rồi, không ngờ vẫn sạch sẽ chỉnh tề như vậy. Xem ra Hoàng thượng tuy nghe lời Hoa Phi nhưng cũng không đến mức bạc đãi tỷ tỷ.”

    Tôi nghe nàng ta nói vậy thì lòng thầm máy động, quay sang nói với Lý Trường đã đưa chúng tôi đến đây: “Vô Lương điện tuy hẻo lánh, hoang vu nhưng lại được thu dọn chỉnh tề như vậy, bản cung biết công công đã phải hao tốn không ít công sức, xin có lời cảm tạ tại đây!”

    Lý Trường hiểu ý, khom người thưa: “Khi xưa nương nương đã để tâm chiếu cố đến nô tài, bây giờ nương nương gặp nạn, nô tài chỉ có thể tỏ chút tâm ý của mình thôi, mong rằng sau này còn có cơ hội hầu hạ nương nương.” Tôi thầm cảm thấy tức cười, gã này đúng là cơ trí thật, tiếp lời không có chút sơ hở nào.

    Lăng Dung mỉm cười, nói: “Tỷ tỷ trước kia đối xử chân thành với người khác, hôm nay rốt cuộc đã có sự hồi báo, muội muội thành ra may mắn được nhờ.”

    Tôi chỉ khẽ cười, Lý Trường vội vàng nói: “Nô tài không thể ở lại đây lâu, sau này mọi sự cung ứng đều sẽ phái người đưa tới, những chiếc thuyền này không thể để lại được. Sắc trời đã tối, nương nương và tiểu chủ nghỉ ngơi sớm đi.”

    Tôi không khỏi buồn bã ra mặt. “Làm phiền công công rồi, xin cáo từ!”

    Thấy Lý Trường đã rời đi, Lăng Dung nói: “Tỷ tỷ đừng buồn quá, Hoàng thượng chỉ nhất thời mờ mắt mà thôi, trong lòng nhất định vẫn còn rất thương yêu tỷ tỷ, chưa biết chừng ngày nào đó sẽ lại đón tỷ tỷ trở lại.”

    Tôi vỗ nhẹ bàn tay Lăng Dung, an ủi: “Ta không sao, chỉ khổ cho muội cũng phải đến đây thôi!” Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Sao muội chỉ mang theo một mình Bảo Quyên, Cúc Thanh đâu? Một cung nữ thì đủ sai bảo làm sao được?”

    Lăng Dung nở một nụ cười ngọt ngào, đáp: “Bảo Quyên là a hoàn muội mang theo từ nhà, tuy tay chân vụng về nhưng sai bảo đã quen. Cúc Thanh là cung nữ tỷ tỷ tặng cho muội, muội sao nhẫn tâm đưa đến đây, nên đã để nàng ta ở lại trông coi Ngọc Nhuận đường rồi.” Nàng ta mỉm cười vuốt ve bàn tay tôi, nói tiếp: “Tỷ tỷ yên tâm, muội cũng biết một chút về may vá, thêu thùa, có việc gì thì tự mình động tay động chân là được.”

    Tôi thấy nàng ta nói như vậy, không khỏi có chút cảm khái: “Thực làm khó cho muội rồi.”

    Cuộc sống ở Vô Lương điện diễn ra một cách yên ả mà cô quạnh, xung quanh chỉ có mấy cung nữ và thái giám, việc có thể làm chỉ là thêu thùa hoa lá, xem ít sách vở, trò chuyện giải sầu với Lăng Dung, thỉnh thoảng vui vẻ thì cùng nhanghiên cứu cách làm mấy món ăn mới, hoặc dựa theo sách cổ pha chế một số loại hương liệu đơn giản, tìm niềm vui.

    Những tháng ngày này thật giống với lúc tôi và Lăng Dung còn chưa vào cung, ngày ngày ở bên nhau như hình với bóng, không bị ước thúc bởi những thứ nghi lễ cung đình khô khan, nhạt nhẽo. Cuộc sống này tưởng như rất yên bình và chẳng còn tranh đấu nhưng tôi lại thầm cảm thấy bất an. Sự bất an này không phải là vì bản thân thất sủng và bị giam lỏng ở nơi này, mà bởi một nỗi lo lắng không tên tại nơi sâu thẳm trong nội tâm.

    Huyền Lăng vẫn khỏe chứ? Ca ca giờ thế nào rồi?

    Mới thoắt đó đã hơn mười ngày trôi qua, trời chừng như sắp lạnh. Mỗi ngày tôi đều ngồi một mình nơi rìa đảo chừng một, hai canh giờ, nhìn những tòa cung điện dày đặc bên bờ hồ Phiên Nguyệt đằng xa, trông về hướng Huyền Lăng trong Thủy Lục Nam Huân điện, mong rằng y không gặp điều gì trắc trở.

    Trong nỗi lo lắng về tình hình chính sự, thỉnh thoảng tôi lại có chút ngẩn ngơ. Những bông hoa sen nở rộ khắp hồ đã sắp đến ngày tàn lụi, khiến tôi nhớ lại cảnh hoa sen trong hồ Thái Dịch năm xưa, khi đó y đã lẳng lặng chở thuyền đưa tôi về Đường Lê cung. Cũng chính là y, vào dịp tháng Tư đã khiến sen trắng nở rộ để mừng sinh nhật tôi, thực là dụng tâm biết mấy.

    Mà lần này đến Thái Bình hành cung, tôi dường như không còn nhìn thấy bóng dáng y nữa, cũng không muốn hỏi tới, chỉ loáng thoáng nghe người ta nói Huyền Lăng đã phái y tới biên quan, bề ngoài là để hiệp trợ các tướng lĩnh ở đó, kỳ thực là tìm cơ hội cho y đi du sơn ngoạn thủy, mà y cả ngày say rượu trong quân, Nhữ Nam Vương cũng chẳng hề để ý tới. Do đó, người trong hoàng thất mỗi lần nhắc tới y quá nửa đều cười khà khà nói rằng đó chỉ là một vị vương gia nhàn tản, kế thừa cái dung mạo đẹp đẽ của cha mẹ mà thôi, ngoài chút văn tài thì kỳ thực là người trói gà không chặt.

    Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ, mũi tên sắc bén xuyên qua cặp mắt của Hải đông thanh lần đó chính là do y bắn ra.

    Huyền Lăng nuôi binh ngàn ngày, ắt có một giờ nào đó cần dùng tới.

    Mỗi lần thấy tôi ngẩn ngơ nhìn mặt hồ, Lăng Dung đều không kìm được có chút lo lắng hỏi: “Tỷ tỷ đang nhớ đến ai sao?”

    Tôi lẳng lặng quay đầu: “Đâu có ai mà nhớ, chỉ nghĩ về bản thân mình mà thôi.”

    Lăng Dung vén váy bước đến, ngồi xuống bên cạnh tôi, từng làn gió lạnh thổi tới như khiến tấm dung nhan mỏng manh, thanh tú của nàng ta nhăn lại. Lăng Dung hờ hững nói: “Hoàng thượng chắc đã quên chúng ta rồi nhỉ?”

    Đầu tháng Tám, Lý Trường đích thân tới một chuyến, đưa quần áo và đồ đạc vụn vặt dùng trong mùa thu, tôi liền sai người đi nhận và sắp xếp cẩn thận.

    Lý Trường thấy tôi có vẻ hơi gầy đi, bèn nói: “Nương nương vẫn khỏe chứ? Hoàng thượng rất nhớ nương nương đấy.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Ta khỏe, xin công công hãy nói với Hoàng thượng là không cần lo lắng gì cho ta.”

    Tôi giả bộ cất bước đi dạo, tới rìa đảo, thấy xung quanh không có người mới cất tiếng hỏi: “Hoàng thượng khỏe chứ?”

    Lý Trường mỉm cười đáp: “Hoàng thượng vẫn khỏe.”

    Tôi vẫn chưa yên tâm, lại hỏi thêm: “Mọi việc đều thuận lợi chứ?”

    Y cúi đầu thưa: “Chỗ Hoàng thượng mọi việc đều tiến hành thuận lợi, nương nương xin hãy yên tâm.” Tôi nghe thế thì thở phào một hơi, sắc mặt cũng có vẻ nhẹ nhõm hơn nhiều.

    Lý Trường lại khom người, nói: “Lần này nô tài tới đây là để nói với nương nương, ngày mai Hoàng thượng sẽ hồi cung.”

    Tôi thầm lo lắng về những tình cảnh mà y có thể gặp phải ở kinh thành, ngoài miệng thì chỉ hờ hững “ồ” một tiếng, nói: “Phiền công công hãy chăm sóc Hoàng thượng cho tốt.”

    Tôi ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy một mảnh mênh mang, trời nước một màu nối liền, khiến người ta chẳng rõ đâu là điểm tận cùng. Lý Trường bước lại gần tôi, nhỏ giọng nói: “Hoàng thượng đã hạ chỉ, phượng thể của Thái hậu còn chưa hết bệnh, cuộc tuyển chọn tú nữ năm nay sẽ dời ngày cử hành.”

    Sự khoan khoái của tôi bất giác lan tỏa khắp toàn thân.

    Hoa Phi đắc sủng, Nhữ Nam Vương lăm le hành động, lúc này tôi tự lo cho mình còn chẳng xong, nếu lại có thêm người mới vào cung làm mưa làm gió, khó tránh khỏi xuất hiện cảnh lo cái này, mất cái kia.

    Huyền Lăng cũng hiểu điều này, sau lưng các phi tần tiến cung đều có thế lực riêng, vào thời khắc mấu chốt này sẽ chỉ khiến thế cục càng phức tạp, cho nên thêm một chuyện chẳng bằng bớt một chuyện.

    Tôi khẽ đưa tay phủi bụi trên áo, nói: “Việc trong cung xin phiền Hoàng hậu để mắt nhiều cho.”

    Lý Trường gật đầu, thưa: “Dạ, nương nương cố gắng chịu ấm ức thêm một thời gian nữa vậy.” Y lấy từ sau lưng ra một bọc vải bông, nói: “Thứ này là do Thẩm Tiệp dư giao cho nô tài. Tiệp dư nói thời tiết đang lạnh dần, Hoàng thượng lại không cho phép nương nương hồi cung, ngoài hồ gió lớn, do đó mới dặn nô tài mang bọc đồ này tới.”

    Trong lòng tôi trào dâng cảm giác vừa ấm áp vừa chua xót, bất kể có hiềm khích thế nào, trong lòng My Trang rốt cuộc vẫn có tôi.

    Trước lúc đi, Lý Trường nói thêm: “Ngày mai nô tài phải đi rồi, đồ đệ của nô tài là Tiểu Vưu khá thông minh, cơ trí, sau này việc đưa đồ tới cho nương nương sẽ do y đảm nhận.”

    Y vừa đi được mấy bước, tôi đã đuổi theo, nôn nóng nói: “Lỡ như về đến kinh thành mà xảy ra chuyện gì không hay, nhất định phải phái người thông báo cho ta biết đấy!”

    Lý Trường khuyên nhủ: “Hoàng thượng vì lo nương nương đứng mũi chịu sào gặp điều không hay nên mới để nương nương tạm lánh một thời gian, nương nương cứ yên tâm.”

    Tôi khẽ gật đầu, trong lòng thầm mong mọi việc sẽ thuận lợi.

    7

    Sau khi Huyền Lăng và các phi tần rời đi, Thái Bình hành cung lại trở nên tịch mịch. Tôi chưa từng được bình tâm ngắm khu lâm viên hoàng gia đẹp đẽ này vào thời điểm như hiện tại, thì ra sau một hồi ồn ào, rộn rã, nó lại vắng lặng đến mức này.

    Cuộc sống sau khi rời xa kinh thành và hậu cung thực giống như bị ngăn cách với đời nhưng dù là như vậy, vẫn có một số tin tức vụn vặt ở triều đình được truyền tới chỗ tôi qua miệng Tiểu Vưu. Có lúc tôi mừng rỡ, có lúc lại âu lo nhưng đa số thời gian vẫn là quan tâm và lo lắng.

    Hoa sen khắp hồ đều đã lụi tàn, mưa thu lất phất bay, rơi xuống lá sen khô, phát ra những âm thanh vụn vỡ khiến tôi trằn trọc không sao ngủ nổi.

    Lá phong đã rực đỏ, hoa cúc đã nở rộ, chim nhạn đã bay về phương Nam. Những làn gió thu cũng dần trở nên lạnh lẽo, vẻ tiêu điều ngày một nồng đậm, hai tháng trôi qua mà tưởng như trong nháy mắt. Trong thời gian này, việc mừng lớn nhất là tẩu tẩu đã sinh hạ được một bé trai bụ bẫm, trắng trẻo ở Tiết phủ. Nhà họ Chân có người nối dõi, tôi cũng cảm thấy yên tâm hơn nhiều.

    Đêm khuya hôm ấy, tôi và Lăng Dung cùng ngồi dưới cửa sổ. Nàng ta cúi đầu may một chiếc áo bông chuẩn bị mặc vào mùa đông, tôi thì chong đèn lật xem sách sử. Lưu Chu đã rất mệt mỏi, ngủ gà ngủ gật một bên, tiếng thở có hơi nặng nề, ngoài ra trong phòng chỉ còn tiếng lật sách sột soạt, bên ngoài có tiếng nước vỗ bờ, hình như trời đang mưa nhỏ.

    Nét mực trên những trang giấy đã ố vàng vẫn toát ra mùi thơm thoang thoảng, từng lời từng chữ đều là chuyện của tiền nhân nhưng lại thấp thoáng ẩn hiện ở nơi này. Sách sử phần lớn đều là lịch sử của nam nhân, tạm chưa nói đến những việc huynh đệ trở mặt, phụ tử thành thù ở thời loạn thế như Xuân Thu Chiến Quốc hay Nam Bắc giao tranh, ngay cả trong khi thịnh trị cũng có “cái loạn bảy nước[1]” ở thời Hán Cảnh Đế, “biến cố Huyền Vũ Môn[2]” ở thời Đường Thái Tông, “tiếng rìu bóng nến[3]” ở thời Tống Thái Tông, nguyên một bộ sách sử đều là do máu, nước mắt và bóng đao, ánh kiếm viết thành.

    [1] Chỉ việc bảy vua chư hầu nhà Tây Hán làm phản, bảy vị vua này đều là người trong hoàng thất, có họ gần với Hoàng đế.

    [2] Chỉ việc Đường Thái Tông giết hết các anh em ở Huyền Vũ Môn rồi ép cha nhường ngôi.

    [3] Chỉ về nghi án thời nhà Tống về việc Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa giết chết anh ruột là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn để đoạt ngôi.

    Trái tim tôi bỗng run rẩy, bàn tay mềm nhũn, để cuốn sách rơi xuống đất.

    Lăng Dung ngẩng lên, ngạc nhiên cất tiếng hỏi: “Tỷ tỷ sao vậy?”

    Tôi sợ bị nàng ta nhìn ra tâm sự của mình, vội nở nụ cười che giấu. “Không có gì, cầm sách lâu quá nên tay hơi tê mỏi thôi!”

    Lăng Dung bật cười khúc khích, nói: “Muội thật không hiểu, sao tỷ tỷ lại thích xem sách như thế chứ, muội cứ nhìn những con chữ nhỏ như con kiến đó là lại cảm thấy đau đầu.”

    Tôi khom người nhặt sách lên, mỉm cười, nói: “Chẳng qua là để giải sầu mà thôi.”

    Tôi vẫn tiếp tục lật sách nhưng người đã lại ngẩn ngơ. Bất kể tôi có ở bên cạnh Huyền Lăng hay không, y vẫn là tất cả của tôi, sự vinh nhục, sống chết, sang hèn của tôi đều là do y quyết định, mặc kệ tôi có toàn tâm toàn ý yêu y hay không, có cam tâm tình nguyện bầu bạn bên y hay không, chúng tôi vẫn sẽ là một thể. Khi y vinh quang, tôi chưa chắc đã được vinh quang nhưng khi y nhục nhã thì tôi nhất định sẽ nhục nhã.

    Y mất công trù tính một thời gian dài như vậy, nhất định không thể thua được. Lỡ như, tôi không dám suy nghĩ đến cái sự lỡ như ấy, nhưng nếu y không còn trên đời này nữa…

    Suy nghĩ này vừa xuất hiện, tôi bỗng cảm thấy hoang mang lạ thường, lồng ngực như nghẹn lại, chỉ muốn bật khóc. Thì ra, tôi lại sợ y chết đến vậy, thì ra, tôi vẫn còn một chút chân tình với y.

    Tới bây giờ tôi mới biết rõ mối quan hệ giữa mình và Huyền Lăng, thì ra ngoài lợi ích vẫn còn có cả tình cảm nữa.

    Đang lúc ngơ ngẩn, Lăng Dung khẽ đẩy tôi một cái, hỏi với giọng quan tâm: “Tâm thần tỷ tỷ dạo này luôn bất định, có phải tỷ có tâm sự gì không?”
    Tôi khẽ lắc đầu, đang định trả lời thì ngọn nến đỏ trên bàn chợt phát ra một tràng dài những tiếng nổ lốp bốp ở chỗ tim nến, giữa bầu không khí tịch mịch, nghe vang vọng vô cùng.

    Lăng Dung bật cười, nói trước: “Tim nến nổ, việc mừng tới. Bất kể tỷ tỷ có tâm nguyện gì, nhất định đều có thể thành sự thực.”

    Tôi biết rõ lời này căn bản không đáng tin, nhưng nghe thấy vẫn cảm thấy thư thái hơn nhiều, khóe miệng bất giác nở một nụ cười mỉm.

    Đang trò chuyện, Cận Tịch bưng một chậu than đi vào, gọi Lưu Chu dậy, cười nói: “Trời vừa mới lạnh, Chu cô nương đã ham ngủ hơn rồi.” Cận Tịch bước tới, nắm lấy bàn tay tôi, nói: “Tay nương nương lạnh quá!” Sau đó, nàng ta liền lấy lò sưởi cầm tay, để vào trong lòng tôi, hào hứng nói: “Nô tỳ đã vùi mấy củ khoai sọ vào trong chậu than, chắc bây giờ cũng ăn được rồi.”

    Lưu Chu mơ màng tỉnh ngủ, Lăng Dung thì vui mừng ra mặt, nói: “Trước đây ở nhà, ta cũng hay ăn thứ này, thoắt đó đã mấy năm trôi qua, bây giờ mới ngửi thôi đã thấy thơm rồi!” Thế rồi, nàng ta bèn ngồi bên chậu than, vừa ăn vừa nói cười trò chuyện. Tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng nói cười của bọn họ, nhưng trái tim đã bay tới tận Tử Áo Thành.

    Tin tốt truyền tới đúng vài ngày trước khi thật sự vào đông, hôm đó trời nắng đẹp, tôi nhìn Lưu Chu và Hoán Bích lấy chăn đệm ra phơi, thỉnh thoảng lại lấy tay đập xuống mấy cái, bụi bặm lập tức bốc lên mù mịt, đám bụi như múa may dưới ánh nắng vàng, khiến người ta hơi nghẹt thở.

    Tôi hơi nheo mắt tránh ánh nắng chói chang. Cuộc sống của tôi vẫn đang diễn ra trong bình lặng nhưng còn Huyền Lăng, y có thể thành công được không? Nhữ Nam Vương quả thực không dễ gì đối phó.

    Đang nghĩ ngợi, phía đằng xa trên mặt hồ có một đội thuyền bơi tới, cờ phướn tung bay. Trái tim tôi bỗng nghẹn lại, không biết phúc họa thế nào, bàn tay vô thức luồn vào trong vạt áo, cầm chặt con dao găm nhỏ.

    Đêm trước hôm bị trách phạt, Huyền Lăng và tôi cùng đứng trong sân, y khẽ vuốt ve bờ má tôi bằng bàn tay có chút thô ráp, lại đặt một con dao găm nhỏ vào lòng bàn tay tôi, cất giọng nặng nề nói: “Việc tồn vong lần này trẫm không dám nắm chắc, lỡ như có điều sơ sẩy, nàng… có thể dùng nó phòng thân.”

    Tôi trịnh trọng nhận lấy và cất nó vào trong người. “Hoàng thượng là con Trời, mọi việc ắt sẽ đều thuận lợi như ý nguyện.” Sau đó kiên định nói: “Nếu tà thực sự thắng chính, thần thiếp quyết chẳng ham sống nhục trên đời.”

    Huyền Lăng kéo lấy bàn tay tôi, im lặng tựa như một vì sao trên trời.

    Tôi tỉnh táo trở lại, nếu Huyền Lăng thật sự thất bại, không còn quyền lực và tính mạng nữa, vậy tôi cũng chẳng thể tự bảo vệ mình. So với việc rơi vào tay Nhữ Nam Vương và Hoa Phi để phải chịu đủ sự giày vò, tôi thà chết luôn tại đây.

    Nỗi sợ hãi về cái chết rất nhanh đã kéo đến gần biết mấy, tôi không biết trong khoảnh khắc kế tiếp, mình còn có thể thở được nữa hay không. Lỡ như đội thuyền kia là do Nhữ Nam Vương phái đến… Một ý niệm sắc bén đột ngột trào dâng, tôi dằn lòng, nghĩ thầm dù có chết thì cũng phải chết một cách oanh liệt. Nếu Huyền Lăng thật sự bỏ mạng trong tay hắn, tôi ít nhiều cũng phải kéo mấy kẻ đi cùng, không thể chết một cách vô ích được.

    Suy nghĩ như vậy, tôi bất giác cảm thấy bình tĩnh hơn một chút. Đây đã là dự tính xấu nhất rồi, dù sự việc diễn ra thế nào thì cũng không thể xấu hơn được nữa, thành ra tôi chẳng còn cảm thấy sợ hãi.

    Cuối cùng người xuất hiện trước mặt tôi là Tiểu Vưu, y mặt mày phấn chấn, chỉ nói ra ba từ: “Thành công rồi!”

    Tôi cả mừng, thân thể bỗng mềm nhũn, con dao găm “keng” một tiếng rơi xuống đất. “Hoàng thượng vẫn bình yên chứ?”

    Tiểu Vưu vội vàng quỳ xuống, dập đầu thưa: “Hoàng thượng không gặp điều sơ sẩy, long thể an khang.”

    Nước mắt tuôn rơi lã chã, nhưng đó là những giọt nước mắt mừng vui, mối họa Nhữ Nam Vương rốt cuộc đã bị diệt trừ rồi. Tiểu Vưu mừng rỡ nói: “Đây là việc mừng lớn, nương nương cớ sao lại khóc? Hoàng thượng đã ra khẩu dụ sai nô tài đi đón nương nương và An Tần tiểu chủ về cung, chúng ta mau khởi hành thôi!”

    Tôi đưa tay lau dòng nước mắt trên má, gật đầu một cái thật mạnh.

    Đêm đầu tiên sau khi về cung, Huyền Lăng nghỉ lại ở Đường Lê cung của tôi, y nâng khuôn mặt tôi lên, nhìn ngắm không ngừng, cất giọng thương xót: “Xa cách gần trăm ngày, Hoàn Hoàn, nàng gầy đi nhiều quá!”

    Tôi khẽ vuốt ve bờ má, nói: “Vô Lương điện hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, thần thiếp ngày đêm luôn lo lắng cho Tứ lang.”

    Y đột nhiên nhớ tới điều gì đó, ôn tồn nói: “An Tần và nàng quả đúng là tình sâu nghĩa nặng, biết nàng sắp bị giam lỏng ở Vô Lương điện mà vẫn khóc lóc van xin trẫm cho phép đi cùng để bầu bạn với nàng. Đồng cam dễ, cộng khổ khó, cái ân tình tặng than giữa trời tuyết rơi này thực đáng quý vô cùng.”

    Trong giọng nói của y mang đầy vẻ tán thưởng, tôi thấp giọng nói: “An muội muội quả đúng như lời Hoàng thượng nói, nhưng thần thiếp vẫn không dám nói chân tướng với muội ấy, việc này ít người biết vẫn là tốt nhất.” Thấy y gật đầu, tôi chăm chú nhìn y. “Hoàng thượng vẫn khỏe chứ?”

    Y kéo tôi vào lòng, cười đáp: “Sau khi hồi cung, nàng đã hỏi câu này nhiều lần lắm rồi đấy!”

    Tôi ngẩn ra, khẽ nói: “Vậy sao? Đến bản thân thần thiếp cũng không biết nữa.”

    Y dịu dàng xoa bờ vai tôi. “Không sao, bây giờ mọi việc đã qua rồi.”

    “Mọi việc đã qua rồi sao?” Tôi lẩm bẩm nói.

    “Đúng vậy”. Huyền Lăng cảm khái nói: “Người của lục đệ đã đoạt lấy binh quyền của Nhữ Nam Vương ở các nơi, giam cầm các tướng lĩnh thuộc phe hắn lại.”

    Lòng thầm máy động, tôi khẽ “ồ” một tiếng vẻ nghi hoặc nhưng lại không nói gì. Huyền Lăng đoán ra suy nghĩ của tôi, bèn cười, giải thích: “Nàng nghĩ lục đệ thật sự chỉ kết giao với những văn nhân mặc khách sao? Hơn nữa, bản thân lục đệ cũng không phải là hạng thư sinh trói gà không chặt.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Thì ra Tứ lang sớm đã an bài rồi, mọi việc trước đó chẳng qua chỉ là để mê hoặc bọn họ mà thôi!” Ngoài mặt thì cười nhưng trong lòng tôi lại lo lắng, Huyền Thanh tuy trợ giúp cho Huyền Lăng nhưng lần này, y tham gia vào phen chính biến đã khiến Huyền Lăng biết rằng y có tài cầm quân, chỉ e sẽ bị Huyền Lăng nghi kỵ. Có vết xe đổ là Nhữ Nam Vương rồi, mà thân mẫu của Huyền Thanh lại là Thư Quý phi, bản thân y lại là đứa con được tiên đế coi trọng, chỉ sợ sự nghi kỵ của Huyền Lăng sẽ còn nhiều hơn.

    Y cười, nói: “Huynh trưởng nàng cũng góp công rất lớn, nếu không nhờ có y đưa tới danh sách những người thuộc phe Nhữ Nam Vương, lại dẫn Vũ Lam quân khống chế phủ Nhữ Nam Vương, việc lớn không thể hoàn thành nhanh như vậy được.”

    Tôi thoáng ngạc nhiên: “Nhữ Nam Vương không phản kháng gì sao?”

    Y ra vẻ tự đắc nói: “Việc này diễn ra hết sức đột ngột, ngay đêm trước đó, Thái hậu còn mời Vương phi và Thế tử của y vào cung thăm Công chúa, đồng thời giữ bọn họ lại nghỉ ngơi trong cung.”

    Tôi khẽ thở dài. “Hắn đã suy nghĩ cho vợ con của mình.”

    Huyền Lăng nói: “Không suy nghĩ cho vợ con cũng không được, trong tay hắn không có binh lực để điều động, dựa vào các gia tướng trong phủ thì chỉ kháng cự được nhất thời. Hắn là người hiểu chuyện!”

    Lòng tôi thầm máy động, cho dù Nhữ Nam Vương có ôm lòng tạo phản, nhưng đối với vợ con, hắn vẫn rất trân trọng, huống chi ham muốn quyền lực của hắn đa phần là tới từ những nỗi ấm ức phải chịu thời niên thiếu. Tôi không kìm được, cất tiếng hỏi: “Vậy Nhữ Nam Vương bây giờ thế nào rồi?”

    Huyền Lăng trầm mặt đi, nói: “Bị nhốt trong Cấm phủ của tông thất. Trẫm đã cho Lục bộ cùng nghị tội hắn rồi.”

    Tôi không nói gì, cáchử trí như vậy cũng coi như là hợp tình hợp lý, chỉ còn chờ xem tội trạng của Nhữ Nam Vương được phán xét thế nào. Sắc mặt Huyền Lăng dần hòa hoãn lại, y hỏi tôi: “Đã biết việc tẩu tẩu nàng sinh được một bé trai chưa?”

    Tôi cười nói: “Thì ra Tứ lang cũng đã biết rồi!”

    Y cười khà khà một tiếng: “Sự việc đã kết thúc, cũng đến lúc để vợ chồng huynh trưởng của nàng được đoàn viên rồi. Lần này huynh trưởng của nàng đã tan nát thanh danh, đến thời khắc con trai ra đời cũng không thể có mặt.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Có thể góp sức cho quốc gia và Hoàng thượng là điều vinh quang tột bậc, một chút ấm ức ấy có tính là gì.”

    Y khẽ nở một nụ cười thư thái, trong Đường Lê cung, nến đỏ sáng trưng, khói thơm nghi ngút, khác hẳn với sự lạnh lẽo bên ngoài.

    Ngay sáng sớm ngày hôm sau, tôi đã đi thỉnh an Hoàng hậu. Hoa Phi vẫn còn nguyên ngôi vị, chỉ là thần sắc ủ rũ, sớm đã khác hẳn ngày xưa. Tôi cũng không nôn nóng, việc ở tiền triều không tiện dính dáng đến hậu cung, năm xưa huynh trưởng của Ngọc Ách phu nhân là Bác Lăng Hầu mưu phản, tiên đế cũng không hề phế truất bà ta, chỉ ghẻ lạnh mà thôi. Dù tôi không nói gì thì Hoàng hậu cũng chẳng chịu tha cho nàng ta. Sau khi chào hỏi theo nghi lễ, mọi người chỉ trò chuyện với nhau vài câu rồi giải tán.

    Mọi người đều rời đi, Hoàng hậu chỉ giữ tôi ở lại, ôn tồn nói: “Quý tần đã phải chịu vất vả rồi!”

    Tôi vội mỉm cười, nói: “Hoàng hậu nương nương bầu bạn bên Hoàng thượng, chăm lo mọi điều mới thực là vất vả, thần thiếp xin đa tạ nương nương.”

    Trong mắt nàng ta ngợp đầy nét cười sâu sắc. “Bản cung và Quý tần đều mang lòng phân ưu cho Hoàng thượng, sao có thể không tận tâm tận sức được.”

    Nàng ta giữ một mình tôi lại tất nhiên không phải để tán gẫu những chuyện vu vơ thế này. Hoàng hậu chậm rãi vuốt ve hộ giáp, nói: “Địa vị của Hoa Phi sớm muộn cũng bị mất, e là người ở bên cạnh nàng ta cũng sẽ bị liên lụy, không xét tới những người đã chết hay bị điên, trong cung đã chẳng còn bao nhiêu phi tần nữa rồi.”

    Lòng tôi bất giác giá lạnh nhưng bề ngoài vẫn tươi cười, nói: “Nương nương muốn tuyển chọn tú nữ cho Hoàng thượng sao? Đây vốn là việc nên làm, chẳng qua bị trì hoãn mà thôi.”

    Hoàng hậu ngồi nghiêm trang, nói: “Tú nữ thì nhất định phải tuyển chọn, nhưng không phải bây giờ. Trước mắt mọi sự đang rắc rối, thực không thể chia bớt tâm lực ra làm việc này được. Ý của Hoàng thượng là…” Nàng ta hơi nheo mắt, nhìn ánh dương nhàn nhạt trải khắp mặt đất bên ngoài cửa sổ, nói: “Trong việc bình định Nhữ Nam Vương lần này có không ít thần tử có công.”

    Hoàng hậu không nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn tôi, trong mắt không có lấy một tia xao động. Tôi đã hiểu ý nàng ta, liền hít sâu một hơi, nói: “Trong nhà những vị công thần đó nếu có nữ tử nào hợp tuổi có thể chọn vào cung là tỷ muội thì thực là tốt quá, tần thiếp tin họ đều là những tiểu thư khuê tú, cử chỉ đoan trang.”

    Hoàng hậu nở nụ cười hài lòng. “Thì ra Hoàng thượng, bản cung và Quý tần đều có chung suy nghĩ, vậy bản cung sẽ chọn ngày tốt để đón những người thích hợp vào cung.”

    Tôi hơi khom người hành lễ, mỉm cười nói: “Hoàng hậu nương nương là chủ của hậu cung, nương nương tự quyết định chủ ý là được.”

    Hoàng hậu cầm chén trà lên, khẽ thổi một hơi, chậm rãi cất tiếng: “Có điều, nói đi cũng phải nói lại, Quý tần cũng là nữ tử xuất thân từ gia đình công thần đấy.”

    Mấy ngày sau, Lục bộ đã xác định xong tội trạng của Nhữ Nam Vương Huyền Tế, tổng cộng có mười điều: Miệt thị quân thượng, bội bạc tiên hoàng, kéo bè kết cánh, quấy rồi triều chính, ngăn cản ngôn luận, ẩu đả đại thần, tham ô tư lợi, lòng mang dị tâm, lạm dụng vũ lực, tham giữ quân quyền. Mỗi điều đều là đại tội đáng chém.

    Huyền Lăng chuẩn tấu, nhưng hạ chỉ tuyên rằng: “Niệm tình Nhữ Nam Vương chiến công không nhỏ, dốc sức nhiều năm, lại là huynh đệ thủ túc, trẫm thực không nỡ giết chết mà khiến vong linh tiên đế không được yên nghỉ. Nay triệt bỏ tước vương, biếm làm thứ dân, giam cầm cả đời trong Cấm phủ của tông thất, không có chiếu chỉ thì không ai được vào thăm.”

    “Vậy còn Vương phi, Cung Định Công chúa và Thế tử thì sao?” Tôi hỏi.

    Y hờ hững nói: “Tất cả đều biếm làm thứ dân, có điều trẫm cho phép bọn họ được tiếp tục ở lại trong phủ đệ cũ của Nhữ Nam Vương”, rồi lại tiếp: “Đây cũng là ý của Thái hậu.”

    Tôi thầm buồn bã, trong những cuộc tranh đấu quyền lực của nam nhân, nữ nhân luôn là những con cờ nhỏ bé, không thể quyết định vinh nhục của bản thân. Bây giờ thứ dân Hạ th trở về phủ cũ, nhìn cảnh suy bại hôm nay mà nhớ về sự vinh hoa phú quý ngày xưa, liệu sẽ mang tâm trạng thế nào?”

    Thế nhưng sự buồn bã ấy chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc. Tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, nếu hôm nay người thất bại là Huyền Lăng, e rằng kết cục của tôi còn chẳng được bằng Hạ thị. Nàng ta ít ra còn có chỗ yên tâm, còn tôi chỉ e đến chỗ để vùi thây cũng chẳng có.

    Nhữ Nam Vương đã bị trị tội, tất nhiên tiếp theo sẽ đến việc tru diệt vây cánh của hắn. Những việc này Huyền Lăng vốn đã rất thuần thục, bây giờ lại càng xe nhẹ đường quen, kẻ thì giết, kẻ thì cách chức, kẻ thì lưu đày. Gia tộc Mộ Dung vốn là thân tín quan trọng nhất của Huyền Tế, toàn tộc tất nhiên đều bị liên lụy.

    Có đại thần dâng tấu, khuyên Huyền Lăng nên dùng hình phạt nghiêm khắc để trị vì thiên hạ, đề phòng lại có cơn biến loạn xảy ra, đặc biệt đối với những kẻ từng nắm binh quyền như gia tộc Mộ Dung, nhất định phải tru di cửu tộc, giết gà răn khỉ.

    Huyền Lăng chậm rãi nhấp một ngụm trà, bộ dạng vô cùng thư thái, đưa bản tấu chương cho tôi, nói: “Nàng cũng xem thử đi!”

    Tôi cẩn thận xem xong, không kìm được hỏi: “Ý của Hoàng thượng là…”

    Y nói: “Cũng coi như có mấy phần đạo lý.”

    Tôi gấp bản tấu chương lại, cung kính đặt trước mặt y, chỉ hỏi: “Hoàng thượng cảm thấy Văn Cảnh[4] thời Hán thế nào? Cha con Tần Thủy Hoàng thì sao?”

    [4] Chỉ Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế – ND.

    Y đáp: “Văn Cảnh là hình mẫu của việc trị vì thiên hạ, ấy là bởi Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế khoan dung độ lượng, tu tâm đức của bậc đế vương; còn cha con Tần Thủy Hoàng…” Y khẽ cười, nói tiếp: “Đều là kẻ bạo quân, đất nước hỗn loạn cũng vì thế, quân chủ đời sau tất phải lấy đó làm điều răn.”

    Tôi đứng trong ánh dương dìu dịu, mỉm cười, nói: “Văn Đế, Cảnh Đế thương xót lê dân, do đó từng nhiều lần giảm nhẹ hình phạt, còn Tần Thủy Hoàng và Tần Nhị Thế thì dùng hình nghiêm khắc, thường xuyên gây cuộc giết chóc, khiến lòng dân hoang mang. Cái đạo của bậc đế vương là dùng đức chứ không dùng hình, sao có thể bỏ lối Văn Cảnh mà học theo cha con Tần Thủy Hoàng được?”

    Đang trò chuyện, bên ngoài chợt có tiếng khóc lóc của nữ nhân vang lên, Lý Trường đi vào bẩm báo: “Khởi bẩm Hoàng thượng, Hoa Phi nương nương cầu kiến.”

    Huyền Lăng thoáng ngẩn ra, đoạn lạnh lùng nói: “Không gặp.”

    “Việc này…” Lý Trường khó xử nói: “Hôm nay Hoa Phi nương nương đã cầu kiến ba lần rồi, lần này còn dập đầu đến sứt cả trán nữa.’

    Huyền Lăng thản nhiên xoay người lại. “Nói với nàng ta, dù có cầu kiến ba trăm lần cũng vô dụng. Tìm người tới băng bó vết thương cho nàng ta, bảo nàng ta hãy ngoan ngoãn ở yên trong cung của mình.” Lý Trường vâng lệnh rời đi, Huyền Lăng quay sang nói với tôi: “Chúng ta nói tiếp chuyện của chúng ta.”

    Tôi cẩn thận liếc nhìn sắc mặt y. “Dạ. Thần thiếp cảm thấy chỉ trong thời loạn thế mới nên dùng hình phạt nặng. Nếu sát sinh quá nhiều, lòng dân sẽ khó mà ổn định.”

    Y vừa chậm rãi bước đi vừa thoáng trầm tư, nói: “Trong lần biến cố này, trẫm sẽ chỉ trừng phạt những kẻ thủ ác, những người còn lại thì tạm lưu cho họ một con đường sống.”

    Tôi thầm cảm thấy nhẹ nhõm, tươi cười nói: “Hoàng thượng thánh minh!”

    Huyền Lăng cầm bút phê vào phía sau bản tấu chương. “Phế bỏ toàn bộ tước vị của gia tộc Mộ Dung. Chém Mộ Dung Quýnh, Mộ Dung Thế Tùng, Mộ Dung Thế Bách, những nữ quyến chưa đủ mười bốn tuổi thì đưa vào trong cung làm nô tỳ, số người còn lại thì cho đi đày ở Lưu Cầu, cả đời không được trở về.”

    Trái tim tôi bất giác trở nên bình lặng. Việc ở tiền triều, Huyền Lăng tất nhiên sẽ lo liệu ổn thỏa, còn hậu cung, cũng đến lúc phải dọn dẹp một chút rồi.

    Hoa Phi, ngươi bây giờ đã cô độc một mình, không còn ai để mà nương tựa nữa.
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 15: Én bay liền cánh
    Tôi không về cung ngay mà tới Tồn Cúc đường của My Trang.

    Lúc này đã gần tới tháng Mười hai, khí trời rét lạnh, hoa cúc sớm đã lụi tàn. My Trang đang ngồi dưới mái hiên sưởi nắng cùng Thải Nguyệt.

    Không khí tuy lạnh nhưng ánh dương lúc chính ngọ như tấm lụa mềm phủ xuống thân thể, khiến người ta có cảm giác khá ấm áp. Tôi ngồi xuống ngay sát My Trang, cười nói: “Tỷ biết hưởng phúc thật đấy!”

    My Trang uể oải ngước mắt, ra hiệu cho Thải Nguyệt lui đi, nói: “Muội rốt cuộc đã tới rồi!”

    Tôi “ừm” một tiếng, khẽ nói: “Tỷ tỷ vẫn còn giận muội sao?”

    Tỷ ấy đưa mắt nhìn tôi, nói: “Ta chỉ giận mình khi đó đã mất công đưa bọc vải bông kia đến cho muội thôi, lẽ ra nên để muội chịu lạnh ở Vô Lương điện mới phải, bây giờ ta đang hối hận lắm đây!”

    Tôi cười khúc khích, lật chiếc áo choàng trên người ra. “Bây giờ có hối hận thì cũng muộn rồi, muội đã cho người làm thành áo bông và mặc rồi đây này.”

    My Trang khẽ cười tủm tỉm, đột nhiên nắm lấy bàn tay tôi, bình tĩnh nói: “Ngày đó là ta không tốt, ta không nên nghi ngờ muội.”

    Thoáng im lặng, tôi nói: “Ngày đó vì việc có liên quan đến tình hình ở tiền triều, muội quả thực không thể giải thích, do đó mới khiến tỷ tỷ hiểu lầm.”

    My Trang hơi nhếch khóe môi, nở một nụ cười buồn bã, ngơ ngẩn nói: “Ta cũng không rõ ngày đó mình bị làm sao, không ngờ lại có thể nói với muội những lời như vậy.”

    Tôi vội nắm lấy bàn tay tỷ ấy, cười nói: “Tỷ tỷ xưa nay vẫn luôn miệng cứng lòng mềm mà, muội lại còn không biết hay sao?” My Trang ngước lên, trong mắt đong đầy vẻ thành khẩn. Hai chúng tôi nhìn nhau cười khẽ, mọi sự không vui trong ký ức đều hoàn toàn tan biến.

    My Trang kéo tôi vào tẩm điện, cho người đặt thêm chậu than sưởi ấm, sau khi đuổi hết người dưới ra mới nói: “Hiện giờ Hoa Phi đã chẳng còn ai để dựa dẫm, như cánh bèo trôi, nghe nói Kiều Tuyển thị cũng không dám ở cùng ả ta nữa, sớm đã dọn đi chỗ khác để tránh bị liên lụy rồi.”

    Tôi biết My Trang có ý nhắc tới điều gì, bèn nói: “Chúng ta tất nhiên không thể ra mặt, dù gì cũng phải tránh mối hiềm nghi. Hơn nữa, nếu không phải là người gần gũi với ả ta thì cũng không thể biết được nhiều điều.” Tôi mím môi cười khẽ. “Cũng đã đến lúc dùng người rồi!”

    Ngày hôm sau, Tiệp dư Tào Cầm Mặc tới Phượng Nghi cung tố cáo với Hoàng hậu việc Hoa Phi Mộ Dung Thế Lan từng bỏ bột sắn vào trong canh mã đề của Ôn Nghi Công chúa hòng giá họa cho Hoàn Quý tần, sau khi giá họa không thành lại sai Tiểu Đường ở ngự thiện phòng nhận tội thay.

    Hoàng hậu hỏi: “Nếu ngươi đã biết sự việc, tại sao không nói ra từ sớm mà phải đợi tới lúc này mới nói?”

    Tào Tiệp dư cung kính thưa: “Thần thiếp vốn cũng không biết nội tình, lại bị Hoa Phi mê hoặc, thành ra một mực cho rằng việc này là do Hoàn Quý tần làm. Mãi về sau, thần thiếp nghe thấy Hoa Phi sai Tiểu Đường đi nhận tội thay mới hiểu rõ nguồn cơn sự việc, đáng tiế lại không cẩn thận bị Hoa Phi phát hiện ra. Hoa Phi uy hiếp thần thiếp, không cho thần thiếp nói ra chuyện này, nếu không sẽ đoạt lấy Công chúa về nuôi dưỡng.”

    Nàng ta vừa kể vừa khóc lóc, khiến người nghe đều như muốn rơi lệ. “Thương thay cho Ôn Nghi Công chúa, còn nhỏ tuổi mà đã phải chịu khổ như vậy, thiếu chút nữa còn mất đi tính mạng. Thần thiếp là người làm mẹ thật đau lòng vô cùng, nhưng lại sợ không thể tự mình nuôi nấng Công chúa.”

    Việc Ôn Nghi Công chúa trúng độc ngày đó kỳ thực ai cũng ôm lòng nghi ngờ, chỉ hiềm rằng Huyền Lăng không cho điều tra tiếp. Hoàng hậu khẽ thở dài. “Nếu quả là như vậy thì Hoa Phi thực tàn độc quá. Nàng ta tuy không phải thân mẫu của Ôn Nghi Công chúa nhưng cũng là thứ mẫu, sao có thể đối xử với một đứa bé như vậy được?”

    Kính Phi đứng bên cạnh nói với vẻ hết cách: “Bây giờ Tiểu Đường đã bị xử tử, coi như là chết không đối chứng rồi.”

    Tào Tiệp dư không chút hoang mang, lau nước mắt nói: “Ngày đó Hoa Phi sai khiến hai cung nữ nói là từng thấy Hoàn Quý tần đi ngang qua Yên Vũ trai, về sau được Đoan Phi nương nương chứng thực thì đã rõ là vu cáo, qua đó có thể thấy được mưu đồ của Hoa Phi. Chỉ đáng thương cho Ôn Nghi Công chúa, từ lúc ở trong nôi đã bị người ta lợi dụng như vậy.”

    Hoàng hậu quay sang nhìn tôi: “Hoàn Quý tần, việc này có liên quan đến ngươi, ngươi có điều gì muốn nói không?”

    Tôi đứng dậy, khom người vái một cái thật sâu, nói rành rọt từng từ: “Việc ngày hôm đó, thần thiếp quả thực bị oan.”

    Hoàng hậu khẽ gật đầu, nói: “Ngươi ngồi xuống đi, người đâu, đi mời Hoa Phi tới đây.”

    Tôi đưa mắt chăm chú nhìn Tào Tiệp dư, việc Ôn Nghi Công chúa vốn đã rõ ràng, tuy không có chứng cứ xác thực nhưng trong lòng mỗi người đều có sự nghi hoặc riêng, lần này nàng ta nhắc lại chẳng qua là muốn khiến việc tiếp theo dễ khiến người ta tin tưởng hơn mà thôi.

    Quả nhiên tôi vừa mới ngồi xuống, Tào Tiệp dư đã lập tức ngước mắt nhìn về phía Hoàng hậu. “Thần thiếp có tội, có một chuyện vẫn một mực không dám nói.”

    Hoàng hậu bình tĩnh cất tiếng: “Ngươi cứ việc bạo dạn nói ra.”

    Thoáng do dự, Tào Tiệp dư dập đầu một cái thật mạnh. “Cái chết của Thuần Tần…”

    Lời này vừa nói ra, mấy vị phi tần đang có mặt đều cả kinh. Hân Quý tần nôn nóng cất tiếng trước: “Thuần Tần không phải bị chết đuối sao?”

    Tôi ngồi bên cạnh Hân Quý tần, nhẹ nhàng nói: “Theo thần thiếp được biết, Thuần Tần bơi lội rất giỏi.”

    Bầu không khí lập tức như đông cứng lại, Hoàng hậu nghiêm giọng nói: “Tào Tiệp dư, ngươi nói tiếp đi!”

    Tào Tiệp dư dường như vô cùng kinh hãi, lắp bắp thưa: “Hôm đó Thuần Tần tới bên bờ hồ nhặt diều, thần thiếp vừa khéo bế Công chúa đứng sau ngọn giả sơn, ai ngờ lại nhìn thấy Hoa Phi nương nương sai thủ hạ là thái giám Chu Ninh Hải ấn đầu Thuần Tần xuống nước. Thuần Tần giãy giụa chẳng được bao lâu thì mất mạng rồi bọn họ liền vứt Thuần Tần xuống hồ, làm ra vẻ như chết đuối.” Tào Tiệp dư nói tới đây, hai mắt ngợp đầy vẻ sợ hãi, nắm chặt lấy chiếc khăn trong tay, không dám nói gì thêm.

    Mấy người Kính Phi đưa mắt nhìn nhau, ai nấy đều sợ đến nỗi sắc mặt trắng bệch. Bàn tay tôi bấu chặt vào tay cầm của chiếc ghế, không ngờ Thuần Nhi lại chết thảm như vậy!

    Hoàng hậu bình tĩnh hỏi: “Sau đó thì sao?”

    “Sau đó…” Tào Tiệp dư nghẹn ngào khóc lóc. “Thần thiếp sợ đến nỗi hồn bay phách tán, chỉ muốn chạy đi thật nhanh, ai ngờ đúng lúc này Công chúa lại bật khóc, làm kinh động tới Hoa Phi.” Tào Tiệp dư lẩm bẩm nói: “Thần thiếp sợ quá, tay chân mềm nhũn ra, Hoa Phi nói nếu thần thiếp dám nói việc này ra ngoài, nhất định sẽ giết thần thiếp và Công chúa. Thần thiếp sợ hãi tột độ, không ngờ nàng ta lại dám giết người trong cung… Về sau thần thiếp đêm đêm mất ngủ, hễ ngủ là mơ thấy bộ dạng của Thuần Tần khi chết… Thần thiếp không thể chịu nổi nữa rồi!”

    Trong ống tay áo tôi có ủ một chiếc lò sưởi cầm tay loại nhỏ, không ngừng tỏa ra hơi ấm, nhưng khóe môi lại dần xuất hiện một nụ cười mỉm lạnh lùng. Đây vốn không phải là chân tướng, nhưng được nói ra từ miệng Tào Cầm Mặc thì lại hệt như thật. Nàng ta hoàn toàn gạt mình ra khỏi những việc ác mà Hoa Phi làm, cùng lắm chỉ là một người mẹ yếu đuối bị Hoa Phi uy hiếp, đáng để tha thứ và xót thương.

    Hoa Phi vốn không ngốc, có điều đã bị sự sủng ái của Huyền Lăng trước đây làm mờ mắt, mài mòn trí tuệ, Tào Cầm Mặc mới thực sự là người đáng sợ. Không có Tào Cầm Mặc, Hoa Phi giống như một con chim ưng già mất đi đôi cánh, lỗ mãng và không có phương hướng, chỉ biết dùng bạo lực; mà sau khi bị Tào Cầm Mặc cắn lại một miếng, Hoa Phi sẽ như thế nào đây? Tôi bất giác khẽ mỉm cười.

    Hoàng hậu cố sức kìm nén cơn giận, hỏi: “Vậy tại sao nàng ta phải giết Thuần Tần? Là vì đố kỵ Thuần Tần đắc sủng sao?”

    Tào Tiệp dư hoang mang lắc đầu. “Về sau thần thiếp để tâm nghe ngóng, mới hay Thuần Tần vô ý bắt gặp cảnh Hoa Phi nói chuyện với tên tiểu thái giám mà Nhữ Nam Vương… à không, là thứ dân Huyền Tế, an bài trong cung, biết được việc Hoa Phi ngầm qua lại với đại thần, do đó mới bị diệt khẩu.”

    Mọi người vừa sợ hãi vừa tức giận. Kính Phi đưa mắt nhìn Hoàng hậu, nói: “Không ngờ Hoa Phi lại dám…”

    Cơn giận của Hoàng hậu dâng lên cuồn cuộn, tích tụ tại nơi ấn đường, đang định nói gì đó thì chợt nhìn thấy Hoa Phi đã đứng bên ngoài điện, bèn cất tiếng: “Tốt! Ngươi tới rồi.”

    Tôi nghe thấy thế liền đưa mắt nhìn qua, thấy trên đầu Hoa Phi vẫn quấn vải trắng, sắc mặt tái xanh, chắc hẳn những lời mà Tào Tiệp dư vừa nói, ả ta đã nghe thấy hết, không kìm được nở nụ cười lạnh.

    Hoa Phi sao kìm nén được tính tình, lập tức gạt tay ả cung nữ đang dìu mình ra, chạy như bay vào, tát cho Tào Tiệp dư một cái thật mạnh. Hoàng hậu giận dữ quát: “Hoa Phi, ngươi làm gì vậy? Trước mặt bản cung chớ có càn rỡ!”

    Hoa Phi chẳng thèm để ý đến Hoàng hậu, túm lấy Tào Tiệp dư định đánh tiếp, nhưng đã bị một đám cung nữ, thái giám ra sức kéo ra. Ả ta không chịu thôi, cất tiếng mắng lớn: “Hay cho con tiện nhân ngươi, không ngờ lại dám bán rẻ bản cung, ngậm máu phun người, uổng cho bản cung hậu đãi ngươi bao nhiêu năm nay!” Tào Tiệp dư chỉ một mực nấp s lưng Kính Phi, nghẹn ngào khóc lóc như chuột nhìn thấy mèo.

    Hoa Phi bị mấy gã thái giám khỏe mạnh ấn chặt xuống ghế không thể cựa quậy, hai mắt đỏ rực lóe lên vẻ hung dữ, ra sức nhìn chằm chằm vào Tào Tiệp dư, cất tiếng mắng lớn: “Tiện nhân, ngươi đã quên mất năm xưa là ai cất nhắc ngươi tới vị trí này, là ai ra sức lấy lòng bản cung sao? Uổng cho bản cung tin tưởng ngươi như vậy!”

    Hoàng hậu đứng bật dậy, lạnh lùng nói với người xung quanh: “Nhớ lấy, là Hoa Phi tự mình nói đã từng qua lại thân mật với Tào Tiệp dư, do đó lời của Tào Tiệp dư đáng tin.” Hoàng hậu khẽ mỉm cười. “Vốn dĩ chỉ là lời từ một phía của Tào Tiệp dư, bản cung chưa tin hoàn toàn, nhưng Hoa Phi ngươi tự mình nói ra là từng tin tưởng Tào Tiệp dư, có thể thấy quan hệ giữa hai bên hết sức thân mật, do đó lời của Tào Tiệp dư nhất định là sự thực!” Sau đó, Hoàng hậu lại nghiêm nghị nói: “Đi bẩm với Hoàng thượng, xin cho Thận hình ty đi thẩm vấn Chu Ninh Hải.”

    Hoa Phi ngây người như tượng gỗ, sau một khoảnh khắc chột dạ, ả ta rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, ánh mắt lẳng lặng nhìn quét qua khuôn mặt những phi tần đang ngồi đây, khiến người ta bất giác cảm thấy chấn động.

    Cuối cùng, ánh mắt của ả ta dừng trên người tôi, ả ta gằn giọng quát: “Là ngươi? Hay là hoàng hậu? Hay là ai trong số các ngươi? Đã sai khiến ả vu cáo bản cung như vậy?”

    Tôi bình tĩnh nhìn lại ả ta, hờ hững nói: “Việc gì phải vu cáo? Nếu muốn người ta không biết, trừ phi mình đừng làm”

    Hoa Phi căm phẫn chỉ mặt mọi người. “Các ngươi… rặt một lũ ném đá xuống giếng, giậu đổ bìm leo! Bản cung đã mất đi cha anh…”

    Hoàng hậu hơi nhếch khóe môi, cắt ngang lời Hoa Phi: “Bọn họ chẳng qua tự làm tự chịu mà thôi. Nhìn bộ dạng này của ngươi, bản cung cũng không thể hỏi gì được nữa, hãy về cung trước đi.” Thoáng dừng lại một chút, nàng ta nói tiếp: “Đừng có giống như một ả đàn bà đanh đá nơi phố chợ, dù thế nào thì ngươi cũng vẫn còn là Hoa Phi đấy!”

    Tà váy dài của Hoàng hậu tựa như một áng mây màu rực rỡ lướt đi trên mặt đất, cung nữ của Hoa Phi thì ủ rũ đỡ ả ta bước lên kiệu. Hân Quý tần đứng cạnh tôi cất tiếng cười vui vẻ, nói: “Bị nàng ta chèn ép bao nhiêu năm rốt cuộc đã có ngày này, đúng là sảng khoái!”

    Rốt cuộc đã có ngày này, khóe môi tôi bất giác hơi nhếch lên.

    Chu Ninh Hải từng là thái giám tổng quản đắc lực nhất dưới trướng Hoa Phi, ngày xưa cũng có thể nói là phong quang vô hạn. Tiếc rằng rơi vào tay Thận hình ty, dù là ai cũng đều giống nhau. Thận hình ty là nơi trừng phạt các cung nữ, thái giám phạm lỗi trong cung, cũng là nơi thẩm vấn. Đêm đó, sau khi nhận được ý chỉ “có thể dùng hình” của Huyền Lăng, lại được Hoàng hậu đích thân dặn dò, thế là bọn họ hết sức cố gắng, trời còn chưa sáng, Chu Ninh Hải đã không chịu nổi sự tra tấn mà cung khai.

    Sau khi nhận được tờ khai, Huyền Lăng lập tức triệu các phi tần từ chính tam phẩm trở lên và Tào Tiệp dư, người đã đứng ra tố cáo, tới cung của Hoàng hậu. Lời trần thuật trên tờ khai khiến Huyền Lăng vô cùng tức giận, trên đó không chỉ có những tội trạng mà Tào Tiệp dư tố cáo như sự kiện bột sắn, cái chết của Thuần Tần, việc câu kết với đại thần, còn có cả việc sai khiến Dư Canh y hạ độc vào thuốc của tôi, đẩy My Trang xuống nước, vu cho My Trang giả vờ có thai cùng rất nhiều lần hãm hại các phi tần khác.

    Gã thái giám tổng quản đưa tờ khai từ Thận hình ty tới, dè dặt thưa: “Chu Ninh Hải đã bị ngất đi hai lần, hắn nói hắn chỉ biết thế này thôi, những việc khác thì đều không rõ.”

    “Những việc khác?” Huyền Lăng phẫn nộ nói: “Còn có những việc khác nữa sao? Nàng ta tạo nghiệt như thế hãy còn chưa đủ?”

    Hoàng hậu cầm tờ khai xem tỉ mỉ một lượt, cau mày nói: “Quả là trúc Nam Sơn không ghi hết tội.” Rồi lại hỏi Huyền Lăng: “Hoàng thượng định xử trí Hoa Phi thế nào?”

    Tôi lẳng lặng nhìn Huyền Lăng, dưới ánh bình minh, y chắp tay sau lưng đứng trước cửa sổ, thần sắc có chút mơ hồ giữa làn ánh sáng mịt mờ. Sau khi im lặng hồi lâu, y mới chậm rãi nói từng từ: “Đi điều tra! Phàm là những thái giám hình tích khả nghi có qua lại với Hoa Phi đều nhất loạt xử tử! Hoa Phi Mộ Dung thị vào cung đã lâu, đức hạnh suy đồi, nay phế bỏ phong hiệu, giáng làm Tuyển thị tòng thất phẩm, buộc rời khỏi Mật Tú cung đến ở tại Vĩnh Hạng.”

    Lòng tôi trầm xuống, Huyền Lăng, y rốt cuộc vẫn không đành lòng ra tay.

    Hoàng hậu ôn tồn nói: “Hoàng thượng có cái tâm nhân đức, rộng lòng với hậu cung, đoán chừng Mộ Dung Tuyển thị nhất định sẽ có thể sửa chữa lỗi lầm, làm lại cuộc đời. Thần thiếp xin thay Mộ Dung Tuyển thị tạ ơn Hoàng thượng.” Rồi lại tiếp: “Mộ Dung Tuyển thị vẫn luôn mong muốn diện kiến Hoàng thượng, chắc hẳn thứ nhất là vì muốn biện bạch, còn thứ hai là để xin Hoàng thượng khoan thứ cho người nhà của mình.”

    Huyền Lăng mím môi, lắc đầu nói: “Giữa trẫm và nàng ta đã không còn gì để nói nữa rồi!”

    Y đột nhiên xoay người, hỏi Tào Tiệp dư: “Nàng đã biết những việc mà nàng ta làm, tại sao đến bây giờ mới nói?”

    Tào Tiệp dư cúi đầu thưa: “Thần thiếp thật sự không dám. Khi xưa Hoa Phi như mặt trời giữa ngọ, vô cùng độc đoán, từng hãm hại vô số phi tần, dưới uy thế của nàng ta, thần thiếp chỉ có thể kín miệng như bưng, mong giữ cho bản thân và Công chúa được an toàn. Hiện giờ Công chúa đã dần khôn lớn, thần thiếp không muốn Công chúa cũng bị người khác uy hiếp giống như mình.” Nàng ta khấu đầu nói tiếp: “Tính mạng của thần thiếp thì chẳng đáng gì, nhưng Công chúa là cốt nhục của Hoàng thượng. Mà lúc này, Hoàng thượng vừa bình định tiền triều, do đó thần thiếp mới có đủ dũng khí tố cáo việc này với Hoàng thượng.” Nàng ta nói với giọng hoàn toàn đúng mực nhưng lại khiến lòng người chấn động.

    Tôi thầm khen vẻ bình tĩnh của nàng ta lúc này, nếu có một tia hoảng loạn thôi, Huyền Lăng nhất định sẽ nghi ngờ là có người sai khiến. Nhưng sau khi nàng ta nói như vậy, sự việc liền trở nên hợp tình hợp lý hơn nhiều, lại tỏ rõ tấm lòng thương yêu con gái của nàng ta, càng khiến mọi người càng thêm tin tưởng.

    Quả nhiên Huyền Lăng nói: “Đứng dậy đi!”

    Tôi thấp giọng than: “Tấm lòng che chở con thơ ấy thật khiến người ta phải xúc động.”

    Kính Phi cũng nói: “Tào Tiệp dư vì bảo vệ con gái mình mà bị uy hiếp như vậy, thực đã phải chịu ấm ức rồi!”

    Huyền Lăng quay sang hỏi Hoàng hậu: “Con gái của công thần đã chọn những ai? Khi nào thì vào cung?”

    Hoàng hậu lấy ra một tờ giấy, chậm rãi đọc: “Thần thiếp vâng theo lời của Hoàng thượng chọn được con gái của Đề đốc Bắc Môn là Lê thị, em gái của Phó đô đốc Vũ Lâm quân là Quản thị, con gái của Ngự sử Đô Sát viện là Nghê thị và con của Lệnh doãn kinh thành là Lạc thị, tất cả đều phong làm Quý nhân chính lục phẩm.” Hoàng hậu khẽ nở nụ cười hờ hững. “Phủ Nội vụ đã soạn sẵn mấy phong hiệu để lựa chọn, Hoàng thượng nói sự vụ bận rộn, giao việc này cho thần thiếp. Thần thiếp đã chọn lấy bốn chữ ‘Phúc, Kỳ, Tường, Thụy’, Lê thị sẽ là Phúc Quý nhân, Quản thị sẽ là Kỳ Quý nhân, Nghê thị sẽ là Tường Quý nhân, Lạc thị sẽ là Thụy Quý nhân, tất cả cùng nhập cung vào ngày Mười hai tháng Mười hai tới đây.”

    Tôi tỉ mỉ lắng nghe, tuy đều là con gái của công thần nhưng phẩm cấp chức quan của cha anh những vị quý nhân mới đều không cao, đại để là Huyền Lăng không muốn có những phi tử xuất thân từ gia tộc tay nắm binh quyền như Hoa Phi vào cung nữa.

    Huyền Lăng thoáng xem qua rồi nói: “Rất tốt, như thế mở miệng gọi cũng thấy dễ chịu.”

    Hoàng hậu nở một nụ cười tươi tắn. “Hoàng thượng hài lòng là tốt rồi!”

    Hân Quý tần đứng một bên nói: “Vậy Kiều Tuyển thị vốn luôn đi cùng Mộ Dung Tuyển thị thì sao, Hoàng thượng định xử trí thế nào?”

    Huyền Lăng không nói gì. Hoàng hậu cất tiếng: “Kệ nàng ta đi, bảo Kính sự phòng triệt bỏ lục đầu bài của nàng ta, không cho thị tẩm nữa là được, Hoàng thượng thấy thế nào?”

    Huyền Lăng nói: “Nàng là Hoàng hậu, mấ việc thế này nàng tự quyết định đi!”

    Tôi cố ý nói: “Tào Tiệp dư tựa hồ cũng từng đi lại gần gũi với Mộ Dung Tuyển thị…”

    Tào Tiệp dư vội vàng khấu đầu thưa: “Thần thiếp có tội, không nên để Mộ Dung Tuyển thị uy hiếp.” Nàng ta rưng rưng nước mắt, ngẩng đầu nhìn Huyền Lăng. “Thần thiếp nguyện chịu mọi hình phạt, chỉ mong Hoàng thượng đừng trách Công chúa.”

    Kính Phi có chút không đành lòng, nói: “Tào Tiệp dư cũng chỉ bất đắc dĩ mà thôi, huống chi Công chúa còn nhỏ như vậy.”

    Huyền Lăng dừng ánh mắt trên người Tào Tiệp dư hồi lâu, suy nghĩ một chút rồi nói: “Tiệp dư Tào thị có công vạch trần tội trạng của Mộ Dung thị, sắc phong làm quý tần chính tam phẩm, phong hiệu là ‘Tương’, cũng sẽ được cử hành lễ sắc phong vào ngày Mười hai tháng Mười hai này.”

    Tào Cầm Mặc được như ý nguyện, nước mắt còn chưa khô, mặt đã lộ nét mừng, vội vàng khấu đầu tạ ơn không ngớt.

    My Trang sớm đã chờ sẵn trong cung của tôi, nghển cổ trông đợi, thấy tôi trở về liền vội vàng hỏi: “Sao rồi?”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Không ban cho cái chết.”

    My Trang biến hẳn sắc mặt, lại hỏi thêm: “Vậy có bị đày vào lãnh cung không?”

    Tôi cũng hết sức thất vọng, hậm hực đáp: “Chỉ bị phế bỏ phong hiệu, giáng làm tuyển thị, phải dọn đến ở trong Vĩnh Hạng.”

    My Trang đứng bật dậy, hai tay nắm chặt thành quyền, sắc mặt lúc xanh lúc trắng, vừa ngẩn ngơ vừa phẫn nộ, hồi lâu sao mới nói: “Chỉ có vậy thôi sao?”

    Tôi gật đầu. “Tội ác của ả, Hoàng thượng đều biết cả nhưng Hoàng thượng ôm lòng áy náy với ả.” My Trang ngơ ngẩn nhìn tôi, tôi khẽ buông tiếng thở dài, tỉ mỉ kể lại việc Hoan nghi hương với My Trang: “Ngày đó ả ta sảy thai, về sau lại mãi không có thai được, ấy đều là vì Hoàng thượng. Thêm vào đó, cha anh ả đã bị xử tử, Hoàng thượng khó tránh khỏi sinh lòng thương hại.”

    My Trang ban đầu nghe đến ngẩn ngơ, đợi tôi kể xong, sắc mặt đã khôi phục lại vẻ lạnh lùng. “Cha anh của ả ta đã bị xử tử nhưng những người khác trong gia tộc đều giữ được tính mạng. Ngày đó, Hoàng thượng có thể nhẫn tâm trừ bỏ mối họa trong bụng ả ta, hôm nay sao lại nhân từ đến vậy?”Tôi cười lạnh, nói: “Một đêm phu thê, trăm ngày ân ái, huống chi bao năm nay, ả ta luôn đắc sủng, Hoàng thượng khó tránh khỏi có chút tình cảm với ả.”

    My Trang cắn chặt răng, lạnh lùng cất tiếng: “May mà bây giờ, ả ta không còn là Hoa Phi nữa, ta tất nhiên có cách ứng phó.”

    Tôi sợ tỷ ấy nôn nóng quá mà hỏng việc, vội nói: “Ả ta tuy bị giáng cấp nhưng dù sao cũng vẫn là cung tần, tỷ đừng kích động.”

    My Trang nở một nụ cười tươi tắn mà lạnh lẽo, nói: “Tất nhiên rồi, ta sẽ không đặt bản thân mình vào nơi nguy hiểm đâu.”

    Tôi thoáng im lặng, mối thù sâu sắc như ghi khắ vào lòng, gằn giọng nói: “Con của muội và Thuần Nhi đều chết trong tay ả, tỷ và muội cũng có mấy phen cơ hồ mất mạng. Thù này tỷ không thể quên, muội tất nhiên cũng không thể quên.”

    Dù còn chút dư âm nhưng sự việc cũng coi như tạm thời kết thúc. Sau khi trừng phạt phe phái của Nhữ Nam Vương, việc phong thưởng cho các công thần cũng được lần lượt tiến hành. Cha tôi được thăng làm Thượng thư bộ Lại chính nhị phẩm, gia phong Thái tử Thái bảo; ca ca được thăng làm Thị lang Bộ binh, Đô đốc Vũ Lâm quân, kiêm Thị giảng học sĩ của Hàn Lâm viện.

    Huyền Lăng cười, nói với tôi: “Xưa nay văn thần võ tướng rất ít khi hòa hợp, trẫm để ca ca nàng kiêm luôn cả chức quan văn lẫn quan võ, thực là trường hợp đầu tiên của triều ta từ xưa tới nay.”

    Tôi nở nụ cười tươi tắn, khẽ tựa người vào lòng y. “Hoàng thượng dụng tâm vất vả, nhưng chỉ sợ ca ca của thần thiếp hãy còn trẻ tuổi, không thể đảm đương trách nhiệm nặng nề này.”

    Huyền Lăng đang có tâm trạng tốt, cười nói: “Nàng không được thấy đó thôi, hôm đó ca ca nàng cầm đao ngồi trên lưng ngựa, một mình giao đấu với mười mấy tử sĩ của phủ Nhữ Nam Vương, quả đúng là thiếu niên anh hùng!”

    Tôi cũng thầm vui vẻ, khiêm nhường nói: “Mong Hoàng thượng hãy để ca ca của thần thiếp rèn luyện nhiều hơn, ngọc mà không mài thì không thể thành ngọc quý được.”

    Y vui mừng đồng ý, nói: “Lần này tẩu tẩu của nàng cũng góp công không ít, trẫm đang tính phong nàng ta làm mệnh phụ chính lục phẩm Tân Bình huyện quân, như vậy ca ca của nàng sẽ không dám bỏ vị phu nhân mà trẫm mới phong nữa.”

    Tôi khẽ phỉ phui một tiếng: “Vở kịch đó đúng là vất vả, hại thần thiếp phải rơi không biết bao nhiêu nước mắt. Nếu không nhờ có Hoàng hậu nương nương giúp đỡ, chỉ e không thể hoàn thành được.”

    Y khẽ hôn lên tai tôi, thấp giọng nói: “Trẫm sẽ không để nàng rơi nhiều nước mắt như thế nữa đâu.”

    Sau khi tôi từ Vô Lương điện về cung, sự sủng ái của Huyền Lăng với tôi lại giống hệt như trước. Còn Lăng Dung, vì trong khoảng thời gian tôi bị giam lỏng ở Vô Lương điện đã xin tới ở cùng tôi, Huyền Lăng lại càng nhìn nàng ta bằng con mắt khác, hết sức sủng ái. Thế nên Lăng Dung tuy không có phong hiệu nhưng sự đãi ngộ còn hơn xa một số người có phong hiệu khác.

    Đợi đến khi trận tuyết đầu tiên rơi thì đã là mùng Bảy tháng Mười hai. Hôm ấy chính là ngày tẩu tẩu tôi vào cung tạ ơn sau khi được phong làm mệnh phụ chính lục phẩm Tân Bình huyện quân.

    Sau khi tẩu tẩu bái kiến Hoàng hậu, Hoàng hậu liền tươi cười rạng rỡ nói: “Hiện giờ vợ chồng các ngươi đã hòa hảo, lại sinh được con trai, thực là tốt quá rồi!”

    Hai má tẩu tẩu đỏ bừng, vội cùng ca ca kính cẩn tạ ơn. Hoàng hậu nói: “Hiếm hoi lắm các ngươi mới tới đây một lần, tất nhiên có rất nhiều lời muốn nói riêng với Hoàn Quý tần, bản cung không giữ các ngươi lại thêm nữa, mau tới cung của Hoàn Quý tần đi!”

    Trời đang có tuyết rơi, trên đường gió lớn, phải ngồi kiệu một lúc mới tới được Đường Lê cung. Lưu Chu và Hoán Bích sớm đã dẫn người chờ sẵn ngoài cửa cung, vừa nhìn thấy kiệu đã chạy tới, khom người tươi cười nói: “Chúc mừng công tử và thiếu phu nhân.”

    Hiện giờ tôi ở trong cung, ca ca và tẩu tẩu lại càng khách sáo với Lưu Chu và Hoán Bích hơn, vội đỡ họ dậy, nói: “Xin chào hai vị cô nương.”

    Cứ như vậy mọi người cùng náo nức tiến vào, bức rèm bông nặng nề vừa được vén lên, một làn gió ấm áp lập tức phả thẳng ra ngoài. Tẩu tẩu không kìm được cười nói: “Thì ra lúc ở trên kiệu chỉ là không lạnh lắm, bây giờ mới thực là ấm áp như mùa xuân.”

    Tôi và bọn họ cùng ngồi xuống, lại sai người dâng trà, sau đó mới tỉ mỉ ngắm nghía ca ca và tẩu tẩu. Sau khi sinh nở, trông tẩu tẩu đẫy đà hơn một chút, sắc mặt hồng hào khỏe mạnh, ca ca cũng có tinh thần sảng khoái, khí khái bừng bừng, khuôn mặt lộ rõ vẻ uy phong.

    Tôi cười nói: “Quả đúng là người gặp việc mừng thì tinh thần thoải mái.” Sau đó lại hỏi: “Sao không thấy cháu của muội đâu?”

    Tẩu tẩu vội đáp: “Ta sợ thằng bé quấy khóc sẽ quấy rầy nương nương. Nếu nương nương muốn gặp, vậy để ta bảo nhũ mẫu bế nó vào đây.” Thế rồi bèn ra lệnh cho nhũ mẫu: “Mau bế tiểu công tử tới đây.”

    Tôi không đợi nhũ mẫu thỉnh an, nhẹ nhàng bế đứa bé vào lòng.

    Tẩu tẩu nói: “Động tác bế trẻ con của nương nương quả là thuần thục.”

    Tôi thoáng ngẩn ra, kế đó liền tươi cười, nói: “Đúng thế, ở trong cung muội thường xuyên bế hai vị công chúa mà.”

    Thằng bé còn chưa đầy tháng, cơ thể vẫn đỏ hỏn, mái tóc sơ sinh khá dày, chắc hẳn vừa được bú no sữa nên ngủ rất ngon, mơ gì đó mà khẽ cười, hoàn toàn không hay biết tới những nỗi sầu khổ giữa thế gian. Tôi thầm cảm thấy vui vẻ, nhưng đồng thời cũng thoáng qua nét ưu sầu. Đứa con của tôi nếu có thể ra đời, bây giờ sẽ có bộ dạng thế nào?

    Đứa con của tôi! Tôi không kìm được khẽ hôn lên bờ má non nớt của đứa bé, nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của nó, nói với Hoán Bích: “Mang chiếc khóa vàng trường thọ trăm tuổi trong tráp của ta tới đây, còn nữa, bốc thêm chút hạt vàng bỏ vào túi thơm cho ta.” Hoán Bích mới đi được hai bước, tôi đã lại nói thêm: “Đi lấy một cây gậy ngọc như ý nữa.”

    Ca ca vội nói: “Nương nương, đứa bé còn nhỏ, không dùng được nhiều như vậy đâu.”

    Tôi khẽ hôn lên bàn tay thằng bé rất mực thương yêu, nói với giọng cưng nựng: “Bây giờ không dùng được, lẽ nào sau này vẫn không dùng được? Đây là một chút tâm ý của người làm cô cô này.”

    Tẩu tẩu cười, nói: “Nương nương thương yêu đứa bé này như vậy là phúc của nó, có điều thế này quả có hơi nhiều.”

    Tôi thầm chua xót, nói: “Tẩu tẩu không biết đấy thôi, con của muội không thể ra đời, đứa bé này muội coi như con ruột của mình vậy, tất nhiên sẽ thương yêu nhiều hơn một chút.” Đương lúc trò chuyện, Hoán Bích đã bưng đồ ra, cười tủm tỉm, nói: “Ngọc như ý sẽ giúp tiểu công tử sau này gặp chuyện gì cũng được như ý, túi hạt vàng sẽ giúp tiểu công tử phúc thọ lâu dài, còn khóa vàng thì tất nhiên sẽ giúp tiểu công tử trường thọ trăm tuổi.” Những lời ấy khiến mọi người đều cười đến nỗi không khép được miệng.

    Tôi hỏi: “Thằng bé đã được đặt tên chưa?”

    Tẩu tẩu thấy tôi thương yêu đứa bé như vậy, bèn vui mừng nói: “Chưa đâu.” Nói rồi lại đưa mắt liếc nhìn ca ca. “Ý của phu quân là xin nương nương ban tên cho nó.”

    Tôi tất nhiên hết sức vui mừng. “Đây là con trưởng của ca ca và tẩu tẩu, nhất định phải đặt một cái tên thật hay mới được.” Tôi suy nghĩ một chút, chậm rãi nói: “Hãy gọi là Trí Ninh đi. Gia Cát Khổng Minh tiên sinh dạy con cháu rằng ‘đạm bạc dĩ minh chí, ninh tĩnh dĩ trí viễn[1]’, ấy mới là cái đạo dài lâu.”

    [1] Có nghĩa là sống đạm bạc thì mới tỏ được chí khí của bản thân, lòng bình lặng thì mới thực hiện được chí hướng cao vời – ND.

    Ca ca thoáng chút trầm tư, nói: “Ninh tĩnh dĩ trí viễn. Lời của nương nương quả là chứa đầy thâm ý.”

    Tôi gật đầu, nói: “Đây là sự kỳ vọng của muội với đứa bé, cũng là lời muốn nói với ca ca và phụ thân. Hiện giờ gia tộc Mộ Dung đã trở thành quá khứ, nhà họ Chân chúng ta rất được ân sủng, thanh thế ngày một hiển hách, nhưng nhất định không được kiêu căng nóng vội, phải thận trọng trong từng hành vi, cử chỉ.” Tôi thấy xung quanh đều là người thân tín, mới thấp giọng nói tiếp: “Gia tộc Mộ Dung chính là tấm gương tày liếp của chúng ta, cần phải lấy đó làm điều răn.”

    Ca ca lộ rõ vẻ nghiêm túc, sau khi liếc nhìn tẩu tẩu, bèn nói: “Dạ, thần xin ghi nhớ kỹ.”

    Tôi cảm thấy thư thái hơn, nghiêng đầu qua, thấy Hoán Bích đang chăm chú nhìn đứa bé trong lòng tôi, bất giác lòng thầm máy động, liền nói với nàng ta: “Ngươi cũng bế thử đi.”

    Hoán Bích cơ hồ không thể tin nổi, do dự nói: “Nô tỳ cũng có thể bế sao?”

    Tôi khẽ gật đầu. “Đúng vậy!” Hoán Bích cẩn thận đón lấy đứa bé, ôm vào lòng như đang ôm một món đồ quý báu tột cùng.

    Ca ca tất nhiên hiểu rõ duyên cớ bên trong, tôi nói với tẩu tẩu: “Hoán Bích là thị nữ tùy thân của muội từ nhỏ, muội xưa nay vẫn luôn coi muội ấy như muội muội ruột thịt của mình, đang có chuyện muốn dặn dò ca ca đây.”

    Ca ca vội đứng dậy, nói: “Mời nương nương nói.”

    Tôi nở nụ cười tươi, kéo tay Hoán Bích lại nói: “Hoán Bích đã đến tuổi gả chồng, xin ca ca hãy giúp muội chọn một người phẩm hạnh đoan trang, nghi biểu đường hoàng trong triều, muội sẽ nhận Hoán Bích làm nghĩa muội rồi gả muội ấy đi thật phong quang.”

    Ca ca mặt lộ nét mừng, chăm chú nhìn Hoán Bích một lát, nói: “Thần nhất định sẽ dốc hết sức lực.”

    Hoán Bích cả thẹn, xoay người, lựa lúc không ai chú ý đưa tay lên lau nước mắt, tôi cũng không kìm được sự thổn thức trong lòng. Lúc này, nhà họ Chân đang đắc thế, tôi sẽ cố hết sức tìm cho Hoán Bích một nơi chốn tốt nhất có thể. Rồi tôi lại mỉm cười, nói: “Cũng xin để ý giúp Lưu Chu.”

    Ca ca nói: “Lần này tới đây thần còn có một chuyện mừng muốn nói với nương nương.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, tò mò hỏi: “Là chuyện mừng gì vậy?”

    Tẩu tẩu cất tiếng trả lời trước: “Cha đã định được hôn sự cho nhị muội Ngọc Diêu rồi, lễ thành hôn sẽ cử hành vào dịp Trùng Dương năm sau.”

    Tôi mừng rỡ vô cùng, hỏi: “Là công tử nhà nào vậy?”

    Ca ca tươi cười đáp: “Là Quản Khê, đệ đệ của Phó đô thống Vũ Lâm quân Quản Lộ, đồng liêu với thần, cũng là ca ca của Kỳ Quý nhân chuẩn bị vào cung. Trong việc bình định Nhữ Nam Vương lần này, y cũng lập được không ít công lao.”

    Tẩu tẩu cũng khẽ nở nụ cười. “Lần này Quản Khê thành hôn với Diêu muội muội nhà chúng ta còn là với cao đấy, nhưng may mà y hãy còn trẻ tuổi, cũng coi như là khá có tương lai.”

    Tôi mỉm cười, gật đầu nói: “Đã là đồng liêu của ca ca, tất nhiên hai bên đều hiểu rõ nhau rồi. Đây là việc tốt.” Thoáng trầm ngâm, tôi nói tiếp: “Người chồng huynh tìm cho Hoán Bích muội muội không được kém vị muội phu tương lai này đâu đấy nhé!”

    Hoán Bích không sao nghe tiếp được nữa, vội giao trả Trí Ninh lại cho nhũ mẫu, xoay người chạy đi mất.

    Tôi giữ ca ca và tẩu tẩu lại ăn đồ điểm tâm, để ý quan sát thần sắc của bọn họ, thấy hai người quả nhiên vợ chồng hòa hợp, phu thê ân ái, mới cất tiếng hỏi: “Nữ tử tên Giai Nghi kia được xử trí thế nào rồi?”

    Ca ca ung dung đáp: “Đã chuộc thân cho cô ta và mua cho một ngôi nhà để ở tạm rồi. Nếu sau này cô ta muốn lấy chồng, bọn ta sẽ bỏ tiền chuẩn bị của hồi môn thật hậu cho cô ta.”

    Tôi dùng nắp chén chậm rãi gạt bọt trà qua một bên, khẽ nhấp một ngụm, cất giọng trêu đùa: “Chắc ca ca không định cưới vị Giai Nghi cô nương đó về làm thiếp đấy chứ?”

    Ca ca liếc nhìn qua phía tẩu tẩu bằng ánh mắt đầy tình cảm, sắc mặt vừa kiên định vừa dịu dàng, thể hiện rõ sự quan tâm sâu sắc của một người chồng đối với vợ. “Thiến Đào tình sâu ý nặng với thần, lại vì thần mà hy sinh nhiều như thế, kiếp này thần tuyệt đối không bao giờ phụ nàng ấy.”

    Hai gò má tẩu tẩu bất giác ửng hồng, lộ rõ dáng vẻ của một người vợ đang đắm chìm trong hạnh phúc. “Ta cũng từng nghĩ vị Giai Nghi cô nương đó tuy thân ở nơi nhơ nhớp nhưng cũng là một người tốt hiếm có, nếu phu quân có ý thì chi bằng hãy nạp về làm thiếp. Nhưng phu quân lại nhất quyết không chịu.” Vừa nói nàng ta vừa đưa mắt nhìn ca ca bằng ánh mắt tràn đầy tình cảm.

    Tảng đá đè nặng trong lòng tôi rốt cuộc đã được gỡ xuống, nếu thực sự như lời thị nữ của tẩu tẩu nói, Giai Nghi trông rất giống Lăng Dung, vậy thì hành động này của ca ca chứng tỏ huynh ấy không có ý gì với Lăng Dung cả.

    Tôi thầm cảm động vì tình cảm giữa ca ca và tẩu tẩu, đặc biệt mối tình phu thê ấy đã trải qua hoạn nạn nên lại càng sâu sắc hơn. Tôi và Huyền Lăng cũng có thể coi là từng cùng trải qua hoạn nạn, chỉ có điều chúng tôi lại không phải là phu thê.

    Tôi gạt bỏ suy nghĩ vu vơ ấy ra khỏi đầu, mỉm cười, nói với ca ca và tẩu tẩu: “Ngày đó chọn tẩu tẩu cho ca ca hoàn toàn là vì muội ngưỡng mộ danh tiếng của tẩu tẩu trong khuê các, nhưng ca ca lại chưa từng gặp tẩu tẩu, do đó muội luôn lo rằng vì duyên cớ này mà hai người không được hòa hợp. Mãi tới hôm nay muội mới có thể thực sự yên tâm.” Lời của tôi tuy là nói với họ nhưng lại giống như đang an ủi trái tim mình. “Qua đó có thể thấy chỉ cần vợ chồng đồng lòng, dù trước khi thành hôn chưa từng gặp mặt vẫn có thể chung sống hòa thuận bên nhau.”

    Ca ca cất tiếng cười sang sảng: “Nguy hiểm thật! Nguy hiểm thật! Nương nương không biết đấy thôi, ngày đó thần thực rất lo sẽ phải cưới một cô nàng ghê gớm về làm vợ.”

    Tẩu tẩu cũng cười, nói: “Nguy hiểm thật! Nguy hiểm thật! Ngày đó ta cũng sợ sẽ bị gả cho một tay vũ phu lỗ mãng!”

    Tôi bật cười. “Bây giờ thì đều hài lòng cả rồi chứ? Kỳ thực người ghê gớm thành đôi với kẻ vũ phu lỗ mãng cũng là điều rất tuyệt.”

    Tôi trò chuyện với ca ca và tẩu tẩu hồi lâu, lại hỏi về việc ăn uống ngủ nghỉ của cha mẹ, đợi khi sắc trời gần tối mới lưu luyến tiễn bọn họ tới ngoài cửa và cáo biệt.

    Gió mạnh nổi lên, những bông tuyết to như lông ngỗng bay lất phất. Trời tuyết rơi thế này tối rất nhanh, bầu trời ngợp giữa màu vàng và xám xịt, những đám mây hạ xuống rất thấp. Ca ca đỡ tẩu tẩu lên kiệu, thấy mái tóc của tẩu tẩu bị gió thổi rối liền đưa tay vuốt lại giúp, sau đó mới ngồi vào chiếc kiệu phía sau.

    Tôi thấy ca ca chu đáo như vậy, trong lòng cảm thấy vô cùng ấm áp. Phu thê ân ái thế này chắc hẳn có thể dắt tay nhau đi tới lúc đầu bạc răng long.

    8

    Thấy bọn họ đã đi xa, tôi chuẩn bị xoay người trở vào, chợt thấy một người cầm ô đứng lẻ loi ở nơi xa tít bên ngoài cửa cung, bộ đồ màu trắng bạc trên người càng khiến bóng dáng ấy thêm phần cô quạnh.

    Tôi tỉ mỉ nhìn kĩ, thấy đó hình như là Lăng Dung. Vừa rồi tôi đặt cả tâm tư lên người ca ca và tẩu tẩu, chẳng biết nàng ta tới đây từ bao giờ, nhìn thấy cảnh tượng vừa rồi, chắc chắn nàng ta sẽ cảm thấy vô cùng thương tâm. Tôi đang định cho người đi mời, người đó đã cất bước tới gần, quả nhiên chính là Lăng Dung. Nàng ta chỉ vận một chiếc áo chẽn màu trà bên trong, bên ngoài khoác chiếc áo choàng bông dày viền da chồn trắng, trên đầu cài đủ thứ đồ trang sức châu ngọc, đúng là bộ dạng của một sủng phi chốn hậu cung, có điều sắc mặt nàng ta trắng bệch, thực không hợp với lối ăn mặc này chút nào.

    Lòng tôi thầm giá lạnh, biết là có điều không ổn, vội kéo tay nàng ta lại, nói: “Trời đang đổ tuyết lớn thế này, sao muội lại một mình chạy tới đây thế?”

    Lăng Dung chậm rãi ngoảnh đầu qua, nở một nụ cười mỉm với tôi, nhưng nụ cười ấy lại giá lạnh như băng tuyết. “Muội vừa từ chỗ Lý Tu dung qua đây, định thăm tỷ tỷ một chút, không ngờ lại nhìn thấy một cảnh đẹp tuyệt vời thế này.”

    Tôi nắm chặt bàn tay Lăng Dung, nói: “Bên ngoài trời lạnh, có gì chúng ta vào trong nói chuyện.”

    Lăng Dung chỉ khẽ lắc đầu. Tôi vội nói với người sau lưng: “Các ngươi vào trong đi, ta với An Tần ở ngoài này ngắm cảnh tuyết.”

    Mọi người đều rời đi. Lăng Dung chăm chú nhìn mặt đất đầy tuyết trắng đến ngơ ngẩn, hồi lâu sau mới khẽ nở nụ cười. “Tỷ tỷ giấu kĩ quá, khiến muội uổng công lo lắng cho công tử.”

    Tôi không khỏi có chút xót xa. “Chuyện này có mối liên quan rất lớn, ý của Hoàng thượng là càng ít người biết càng tốt. Hơn nữa, muội quan tâm tắc loạn, dù gì không biết vẫn hơn.”

    Cây trâm vàng khảm ngọc cài trên búi tóc Lăng Dung lóe lên những tia sáng lạnh băng. “Đúng thế! Muội biết nhiều như thế để làm gì? Chi bằng không biết.” Vẻ mặt nàng ta vừa như vui vẻ vừa như đau buồn. “Công tử và thiếu phu nhân hòa hợp với nhau là tốt rồi.”

    Tôi bất giác ngây ra, khẽ cất tiếng gọi: “Lăng Dung…”

    Nàng ta chậm rãi quay đầu sang, thần sắc đã dần khá hơn, khẽ cười, nói: “Tỷ tỷ nhầm rồi, Hoàng thượng chỉ quen gọi muội là Dung Nhi thôi.”

    “Dung Nhi?” Tôi hơi ngây người, rồi chợt cười, nói: “Muội nhớ được vậy là tốt.”

    Nàng ta lẩm bẩm: “Tất nhiên là muội nhớ chứ.” Sau đó lại tiếp: “Sắc trời đã tối, muội phải về cung đây, tỷ tỷ cũng mau vào trong đi.”

    Trên cổ chiếc áo choàng mà tôi đang mặc có viền một lớp lông hết sức mềm mại, từng làn hơi thở phả ra, những sợi lông màu xám bạc đó dần khiến tầm mắt tôi trở nên mơ hồ.

    Bóng dáng Lăng Dung từ từ biến mất giữa trời tuyết bập bùng, chỉ còn một hàng dấu chân lưu lại trên mặt đất. Những bông tuyết lớn tung bay giữa trời như đang nhảy múa, lại giống như những giọt nước mắt đang rơi, chẳng bao lâu sau đã phủ kín những dấu chân mà Lăng Dung để lại.

    Tất cả trở về như cũ. Dường như Lăng Dung chưa từng tới đây. Dường như, nàng ta chưa từng yêu bao giờ.
     
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 16: Lửa lan
    Ngày Mười hai tháng Mười hai, Tào Tiệp dư được tấn phong làm Tương Quý tần, lễ sắc phong cử hành trong Thái miếu. Nàng ta được trở thành chủ nhân một cung, nơi ở cũ cũng từ Hòa Hú đường đổi thành Hòa Hú điện. Dưới ánh châu ngọc long lanh rạng rỡ, nàng ta tươi cười dè dặt, ý nguyện cũng coi như đã được đạt thành.

    Ngày đầu tiên sau lễ sắc phong, tôi và nàng ta gặp nhau ở Thượng Lâm uyển. Lúc này, nàng ta đầy vẻ tao nhã, đang đứng nhìn Ôn Nghi chơi đùa với nhũ mẫu và mấy cung nữ trên nền đất tuyết, dung nhan thanh tú, mộc mạc thường ngày nay đã kiều diễm thêm mấy phần. Tôi và nàng ta chào nhau theo lễ ngang vai, cùng chúc nhau an lành.

    Nàng ta tươi cươi, vui vẻ nói: “Tinh thần Hoàn muội muội càng ngày càng tốt hơn rồi!”

    Tôi cũng khẽ mỉm cười. “Sao có thể không tốt được? Nghe nói chiều qua bốn vị quý nhân mới đã vào cung rồi, đều ở trong Mật Tú cung của Mộ Dung Tuyển thị trước đây. Thực là vô cùng náo nhiệt.”

    Tương Quý tần vuốt nhẹ chiếc áo choàng màu xanh nhạt của mình, nói: “Vậy thì tốt, người cũ vừa đi, người mới đã tới, cũng coi như không làm hoang phế Mật Tú cung. Trước đây khi còn tại vị, Hoa Phi rất mực xa hoa, Mật Tú cung có thể nói là lộng lẫy vô cùng, qua điều này cũng có thể thấy Hoàng thượng rất xem trọng bốn vị quý nhân mới.”

    Tôi cười tủm tỉm gật đầu, bốn vị quý nhân mới là gia quyến của những công thần trong cuộc bình định Nhữ Nam Vương, ở Mật Tú cung cũng là lẽ thường tình, kế đến lại cười, nói: “Bốn vị muội muội mới tới là nhân vật thế nào, chẳng bao lâu nữa sẽ rõ ngay thôi.”

    Tương Quý tần vốn thỉnh thoảng còn dặn dò nhũ mẫu và cung nữ cẩn thận trông coi Công chúa, nhưng trò chuyện với tôi rất hợp, dần không còn để ý tới tình hình xung quanh nữa. Chợt nghe “úi chao” một tiếng, kế đến là tiếng khóc giòn tan của một bé gái. Tôi và Tương Quý tần cùng hoảng hốt quay lại, vội vã tìm kiếm bóng dáng của Ôn Nghi.

    Chỉ thấy trên nền tuyết trắng phau, Ôn Nghi ngã nhào trên mặt đất, bên cạnh còn có một nữ tử vận cung trang cũng đang bị ngã.

    Nhũ mẫu và các cung nữ sợ hãi đến nỗi sắc mặt trắng bệch, vội chạy tới định đỡ Ôn Nghi và nữ tử đó dậy, nhưng nữ tử đó nhanh tay hơn, ôm lấy Ôn Nghi vào lòng, dịu giọng dỗ dành.

    Tương Quý tần lo lắng đến nỗi mặt mày tái nhợt, vội cùng tôi chạy qua hướng đó, hành lễ sơ qua với nữ tử kia: “Đoan Phi nương nương kim an!” Sau đó liền đưa tay ôm lấy Ôn Nghi.

    Ôn Nghi còn ít tuổi, chỉ biết có mẫu thân, được Tương Quý tần ôm trong lòng liền lập tức ngừng khóc, hai con mắt tròn xoe, đen láy đảo qua đảo lại nhìn những người xung quanh.

    Nghĩ tới việc con gái bị ngã, Tương Quý tần không khỏi tức giận vô cùng, lớn tiếng trách mắng nhũ mẫu và mấy cung nữ: “Rặt một lũ giá áo túi cơm, ngay đến Công chúa mà cũng không chăm nom cho tốt, chỉ biết ăn bơ làm biếng, ngày mai bản cung sẽ bẩm với Hoàng hậu, phải cho các ngươi một trận đòn nhớ đời.” Nhũ mẫu và mấy cung nữ đều vô cùng sợ hãi, vội vàng quỳ xuống van nài.

    Tương Quý tần vẫn còn trách mắng không thôi, Đoan Phi đứng bên cạnh thấy vậy thì hơi cau mày, sắc mặt lộ rõ vẻ quan tâm, nói: “Còn không mau xem xem Công chúa có bị thương không.”

    Tương Quý tần tỉnh táo trở lại, lập tức im miệng, tay chân luống cuống cùng nhũ mẫu kiểm tra xem Ôn Nghi có bị thương không, sau khi xác nhận không có vấn đề gì mới thở phào một hơi. “Đa tạ Đoan Phi nương nương giúp đỡ!”

    Tôi thấy sắc mặt Đoan Phi hơi nhợt nhạt, tay trái giấu trong ống tay áo, tư thế kỳ lạ, trên ống tay áo bên trái còn dính đầy vết bùn đất, bèn hỏi: “Nương nương không việc gì chứ?” Nàng ta khẽ lắc đầu rồi quay sang nói với Tương Quý tần: “Ôn Nghi Công chúa chỉ bị trượt ngã thôi, bản cung đỡ lấy nhanh, chắc không có việc gì đâu, có điều vẫn cần mời thái y tới xem cho ổn thỏa.”

    Tương Quý tần vội vàng vâng dạ rồi sai cung nữ hầu cận đi mời thái y.

    Tinh thần Ôn Nghi rất tốt, miệng kêu “ê ê a a” không ngừng, đột nhiên ngẩng đầu, dang tay, nhào về phía Đoan Phi.

    Đoan Phi thoáng ngạc nhiên, kế đó liền không sao kìm được nụ cười và vẻ thương yêu lộ ra trên khuôn mặt, đưa tay phải ra ôm Ôn Nghi vào lòng. Tương Quý tần vội buông tay, cười nói: “Đứa bé này đúng là không sợ người lạ, xem nó thân thiết với nương nương chưa kìa.”

    Tôi đứng bên cạnh nhìn mà thích thú, cũng cất tiếng góp vui: “Xem ra Ôn Nghi rất thích Đoan Phi nương nương đấy.” Đoan Phi càng nhìn lại càng vui vẻ, khẽ ngâm nga một khúc hát, tựa trán vào trán Ôn Nghi, chọc cho Ôn Nghi bật cười khúc khích.

    Tôi thấy Đoan Phi yêu quý Ôn Nghi như vậy mà cũng chỉ dùng tay phải để ôm, liền biết tay trái của nàng ta nhất định đã bị thương bèn đón lấy Ôn Nghi, đưa lại cho Tương Quý tần, nói: “Nương nương sao chỉ đi có một mình thế, Cát Tường và Như Ý đâu?”

    Đoan Phi chẳng để tâm đến lời của tôi, ánh mắt lưu luyến nhìn Ôn Nghi chăm chú, tiện miệng đáp: “Ta sai Cát Tường với Như Ý đi lấy một ít nước tuyết trên lá trúc về dùng, đang ở đây đợi bọn họ quay lại.”

    Tôi vội vàng cười, nói: “Áo của nương nương bị bẩn rồi kìa, nếu nương nương không ngại, xin hãy tới Đường Lê cung thay bộ đồ sạch sẽ trước đã.”

    Ánh mắt tôi làm như vô tình liếc qua cánh tay trái của nàng ta. Nàng ta hiểu ý, bèn nói: “Cũng được!” Tôi bèn gọi Lưu Chu lại, sai dẫn Đoan Phi đến Đường Lê cung, rồi chỉ nói: “Nương nương xin hãy đi trước một bước, đợi lát nữa thần thiếp sẽ tới sau.”

    Nàng ta gật đầu, mím môi thu lại nụ cười, đi được vài bước chợt ngoảnh lại, chăm chú nhìn Ôn Nghi Công chúa đang nô đùa vui vẻ trong lòng Tương Quý tần, sắc mặt đầy vẻ quyến luyến.

    Tương Quý tần thấy Đoan Phi đã đi xa, liền nhìn theo bóng lưng gầy guộc của nàng ta, khẽ thở dài một tiếng, nói: “Đáng tiếc ta gia cảnh sa sút, dù có chen chân lên hàng quý tần cũng khó mà đảm bảo được tương lai tốt đẹp cho Ôn Nghi. Nếu có thể đứng vào hàng phi như Đoan Phi nương nương chắc sẽ tốt hơn nhiều.”

    Tôi nghe thấy lời này nhưng mặt không đổi sắc. Nàng ta xoay người nhìn tôi, sắc mặt có chút lúng túng, tự biết mình đã lỡ lời, vội cất tiếng khỏa lấp: “Ta chẳng qua chỉ tiện miệng nói vậy thôi, Hoàn muội muội chớ để tâm.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Đâu có. Tào tỷ tỷ có chí hướng như vậy mới là việc tốt, dù không suy nghĩ cho mình thì cũng phải tính toán cho Công chúa. Muội sắp trở thành nghĩa mẫu của Công chúa rồi, tất nhiên là hy vọng sau này Công chúa sẽ được gả cho người chồng tốt, như thế muội cũng được nhờ.”

    Trong mắt Tương Quý tần hiện lên vẻ đề phòng, ngoài miệng thì vẫn tươi cười. “Đa tạ lời tốt lành của Hoàn muội muội. Ta sao có thể so với muội muội được, vừa được hoàng ân chiếu cố vừa có huynh trưởng mới lập công lao lớn cho Đại Chu, rất được Hoàng thượng tin tưởng. Xem ra ngày muội muội được lên ngôi phi đã không còn xa nữa rồi, tương lai của Ôn Nghi hoàn toàn trông chờ vào muội muội đấy!”

    Nàng ta câu nào câu nấy đều gọi “muội muội” ra chiều thân mật lắm, tôi chỉ mỉm cười lễ độ, lại chợt nhớ đến vẻ yếu ớt của Đoan Phi, bèn khẽ thở dài. “Đoan Phi nương nương rất thích Công chúa, nhưng sức khỏe lại không được tốt lắm, chắc là không thể sinh nở được nữa rồi.”

    Tương Quý tần chợt thu lại nụ cười, sau khi im lặng một lát liền nói: “Đoan Phi nương nương bị người ta ép uống hồng hoa nên không có khả năng sinh nở được nữa.”

    Tôi thầm buồn bã, trong sự buồn bã còn có một tia kinh ngạc, vội hỏi: “Sao lại như vậy? Đoan Phi là phi tử vào cung sớm nhất cơ mà!”

    Tương Quý tần dường như không muốn nói thêm nhưng lại không cự được sự truy hỏi của tôi, rốt cuộc đã thổ lộ: “Muội cho rằng ai có thể làm được một việc hống hách, tàn độc như vậy?” Nàng ta dường như cũng có chút không đành lòng. “Đoan Phi tuy vào cung sớm nhất nhưng hiềm rằng đã thất sủng từ lâu.”

    Tôi trầm ngâm suy nghĩ, đem ráp nối những manh mối trước sau lại trong đầu, chợt cả kinh hỏi: “Có phải là vì chuyện Hoa Phi sẩy thai ngày đó không?”

    Tương Quý tần khẽ gật đầu, cùng tôi đi tới chỗ cách xa những người khác hơn. “Việc này vốn chỉ có Hoàng thượng, Hoàng hậu và hai người Đoan, Hoa biết, thực là bí mật vô cùng, mãi về sau ta mới được nghe Hoa Phi vô tình nhắc đến, muội muội xin chớ kể với người nào khác.” Thấy tôi đồng ý, nàng ta mới chậm rãi kể: “Khi đó, Hoa Phi vẫn còn là Hoa Quý tần, đứa bé trong bụng được xác định là con trai, đáng tiếc còn chưa đầy tháng thì đã sẩy rồi. Trước đó, nàng ta chỉ từng uống thuốc an thai mà Đoan Phi đưa tới, thế là bèn dâng lời tố cáo lên Hoàng thượng và Hoàng hậu, nhưng sau đó sự việc lại bị bỏ mặc làm lơ. Hoa Phi trong cơn giận dữ liền dẫn người xông vào tẩm cung của Đoan Phi, ép Đoan Phi phải uống canh hoa hồng mà tuyệt dục, từ đó Đoan Phi liền đau bệnh mãi không khỏi. Hoàng thượng bừng bừng nổi giận, trách cứ Hoa Phi một phen, đồng thời diệt khẩu toàn bộ người có mặt hôm đó, nhưng cũng chỉ hậu đãi Đoan Phi hơn một chút mà thôi.”

    Tôi cả kinh. “Không ngờ Hoa Phi lại ra tay tàn độc như vậy, lẽ nào nàng ta chưa từng hoài nghi là người khác động tay động chân sao?”

    “Người khác?” Tương Quý tần thoáng lộ vẻ hồ nghi, kế đó liền mỉm cười, dửng dưng nói: “Có lẽ là có người khác, nhưng bát thuốc đó quả thật được đưa tới từ tay Đoan Phi. Hơn nữa sự việc xảy ra đã lâu rồi, bây giờ Đoan Phi vẫn đang mang bệnh, Hoa Phi thì bị phế truất, có ai hỏi tới làm gì!”

    Nàng ta khẽ cười một tiếng rồi dừng lại, không nói gì thêm. Lòng tôi thầm máy động, chậm rãi nói: “Chữ ‘Tương’ mang ý tương trợ. Hoàng thượng chọn chữ này làm phong hiệu cho Tào tỷ tỷ, hình như khá có thâm ý!”

    Nàng ta trầm ngâm một chút, đưa mắt nhìn tôi. “Kẻ làm tỷ tỷ đây không hiểu mấy về chữ nghĩa, xin muội muội giải thích giúp ta.”

    Tôi mân mê chuỗi hạt châu màu xanh ngọc bích trên tay. “Tỷ tỷ được ở ngôi quý tần này là vì duyên cớ gì? Đó là vì Nhữ Nam Vương ở tiền triều đã được bình định, mà Hoa Phi trong hậu cung xưa nay luôn có mối quan hệ mật thiết với Nhữ Nam Vương, cần có người đứng ra lật đổ, Hoàng thượng và Hoàng hậu đều có tính toán như vậy. Tỷ xuất hiện rất đúng lúc, do vậy Hoàng thượng mới phong tỷ làm Tương Quý tần, ý tứ bên trong chính là ở đó.” Tôi khẽ hắng giọng thở dài, nói thêm một câu: “Đáng tiếc, Mộ Dung Thế Lan bây giờ vẫn là tuyển thị, Hoàng thượng vì niệm cái tình nghĩa ngày xưa nên chắc sẽ không làm khó nàng ta quá đâu.”

    Sắc mặt Tương Quý tần hơi biến đổi, chỉnh lại chiếc áo gấm th hình sư tử trên người một chút, nói: “Đoan Phi nương nương còn đang thay áo trong cung của muội muội đấy, chắc muội muội cũng nên quay về rồi, ta cũng phải đưa Công chúa về cung đây.”

    Tôi mỉm cười nhường đường, xoay người rời đi.

    Về đến cung, tôi thấy Cận Tịch đã thay xong cho Đoan Phi một bộ đồ sạch sẽ, đang chuẩn bị xử lý vết thương trên tay trái cho nàng ta. Tôi bảo Cận Tịch mang bộ đồ bẩn kia đi giặt, đích thân bôi thuốc lên khuỷu tay giúp Đoan Phi.

    Vết thương của nàng ta quả thật không nhẹ, bị rách một đường rất dài, còn sưng vù lên. Tôi nhẹ nhàng bôi thuốc, cúi đầu, chỉ nhìn miệng nàng ta. “Nương nương xưa nay vốn không thích Hoa Phi, mà Tương Quý tần khi trước vốn là người của Hoa Phi, sao nương nương lại không màng nguy hiểm đi cứu con gái của nàng ta vậy?”

    Lúc bôi thuốc nhất định là khá đau, nhưng Đoan Phi chẳng cau mày lấy một cái, sắc mặt vẫn hờ hững như thường, bình lặng như mặt nước hồ thu. “Trẻ con không có tội.”

    Tôi lấy vải xô quấn quanh khuỷu tay nàng ta, lại giúp nàng ta kéo tay áo xuống, khẽ nói: “Hình như nương nương rất yêu thích đứa bé đó.”

    Nàng ta khẽ cười, nhưng trong nụ cười lại thấp thoáng vẻ ngẩn ngơ và đau xót. “Ta không có duyên với đường con cái, chỉ có thể thương yêu con của người khác mà thôi! Có điều, đứa bé Ôn Nghi đó đúng là rất đáng yêu!”

    Tôi cười, nói: “Đứa bé đó quả có tướng thông minh của Tương Quý tần, chỉ mong sau này nó đừng học theo thói xảo quyệt của mẫu thân nó.”

    Đoan Phi cất giọng tiếc nuối: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, chỉ e không dễ gì được như vậy.”

    Tôi nửa đùa nửa thật nói: “Nếu đổi cho nó một vị mẫu thân tốt để được dạy dỗ cẩn thận thì tốt rồi!”

    Đoan Phi thoáng trầm tư rồi cũng không nói gì thêm, vô thức đưa bàn tay ra. Tôi vội nói: “Đừng động đậy, kẻo lại làm vết thương thêm đau.”

    Đoan Phi cười vang. “Trong hậu cung có nhiều nỗi đau lắm, chút vặt vãnh này thì có đáng gì.”

    Tôi chợt nghiêm túc hỏi: “Việc Hoa Phi bị phế truất chắc nương nương đã nghe nói rồi, không biết nương nương suy nghĩ thế nào?”

    Nàng ta hơi nhướng mày, cười tủm tỉm, nói: “Tuyển thị? Vốn nên như vậy mà.”

    Tôi nở một nụ cười thư thái. “Nương nương cũng nghĩ như vậy sao?”

    Nàng ta ngồi thẳng người, nét mặt tuy tươi cười nhưng trong mắt lại chẳng có ý cười nào cả, lạnh lùng tựa băng tuyết. “Ngày đó, nàng ta phạt muội phải quỳ đến nỗi sẩy thai, vậy mà Hoàng thượng cũng chỉ giáng nàng ta xuống hàng phi và tước đi phong hiệu, bắt phải suy nghĩ lỗi lầm. Muội cho rằng Hoàng thượng làm thế chỉ vì kiêng dè Nhữ Nam Vương thôi sao?”

    Tôi lắc đầu. “Nếu quả như thế thì hôm nay Hoàng thượng đã giết nàng ta rồi!”

    Đoan Phi nói: “Không sai! Tuy ta không biết là vì duyên cớ gì, nhưng cứ nhìn tình hình thời gian qua mà xét, Hoàng thượng không phải là không có tình cảm với nàng ta.”

    Tim tôi đập thình thịch, đột ngột ngẩng lên. “Tình cũ khó dứt, Mộ Dung Thế Lan tuy có sai lầm lớn nhưng dù sao mấy năm qua cũng luôn là phi tử đắc sủng nhất, Hoàng thượng chưa chắc đã không có chút chân tình nào với nàng ta.” Bên khóe môi tôi chậm rãi xuất hiện nụ cười. “Do đó, lúc này nếu có ai đi khuyên Hoàng thượng giết nàng ta, chắc chắn sẽ chỉ khiến Hoàng thượng chán ghét.”

    Ánh mắt nàng ta trở nên lạnh lẽo, rất nhanh đã nở một nụ cười dịu dàng. “Ta muốn nàng ta biến mất khỏi hậu cung này lâu lắm rồi!”

    Ngón tay tôi gõ nhẹ xuống mặt bàn, nở một nụ cười tươi. “Về điều này, thần thiếp có chung suy nghĩ với nương nương.”

    Nàng ta thu lại nụ cười. “Như vậy là tốt nhất, có điều muội cũng nên để ý đến Tương Quý tần, nàng ta không phải hạng tốt đẹp gì đâu.”

    Tôi rót cho nàng ta một chén trà Đồng Tử Tống Xuân, tươi cười rạng rỡ, nói: “Điều này thì thần thiếp biết, nương nương hãy nếm thử loại trà này đi, ngày sau thần thiếp sẽ có đại lễ dâng tặng cho nương nương.”

    Bốn vị quý nhân Phúc, Kỳ, Tường, Thụy tập hợp trong Chiêu Dương điện của Hoàng hậu để bái kiến tất cả những phi tần có địa vị trên mình. Tôi và Hân Quý tần, Tương Quý tần ngồi cạnh nhau, Hân Quý tần thừa dịp Hoàng hậu đang chỉ dạy bốn người bọn họ mà cười trộm, nói: “Mặt mũi trông cũng không tệ, có điều phong hiệu thì đậm nét mừng vui quá!”

    Tôi vội đưa tay khẽ kéo nàng ta, ra hiệu hãy im lặng, nói: “Việc mừng gần đây đâu có ít.” Tương Quý tần chỉ mỉm cười không nói.

    Tỉ mỉ nhìn kĩ, dung nhan của bốn vị quý nhân mới đều khá xuất chúng. Phúc Quý nhân Lê thị mặt mày tươi tắn, Kỳ Quý nhân Quản thị dung mạo đoan trang, Tường Quý nhân Nghê thị mày cong lá liễu, Thụy Quý nhân Lạc thị kiêu sa như hàn mai. Hân Quý tần không kìm được lại nói thêm: “Phúc Quý nhân người cũng như tên, trông thực là đầy nét mừng, Thụy Quý nhân thì thanh tân thoát tục, có điều nhìn kĩ lại vẫn là Kỳ Quý nhân đẹp hơn một chút.”
    Hân Quý tần tuy mau mồm mau miệng nhưng ánh mắt nhìn người quả là rất chuẩn, tôi cười, nói: “Tường Quý nhân cũng rất đẹp, có điều…” Lời tiếp theo có hơi bất nhã, tôi không nói tiếp, thầm lẩm bẩm vẻ đẹp của Tường Quý nhân thực là quá tinh minh, nơi đầu mày cuối mắt toàn là tâm kế.

    Tương Quý tần cũng khẽ cười. “Người nhiều, thị phi cũng nhiều.”

    Tôi nhìn nàng ta, cười hờ hững. “Đáng tiếc, người trong chốn hậu cung này vĩnh viễn không bao giờ là số ít.”

    Đêm đó, Huyền Lăng triệu Kỳ Quý nhân tới thị tẩm, chắc là vì khá yêu thích, ngay ngày hôm sau liền cho nàng ta dọn đến cung của tôi, ở nơi Sử Mỹ nhân đã sống trước đây. Tôi không dị nghị, dù sao nhà họ Quản của Kỳ Quý nhân cũng sắp kết thành thông gia với nhà tôi, như vậy hai bên lại càng gần gũi với nhau hơn một chút.

    Huyền Lăng vốn định dựa theo thể chế tấn phong cho nàng ta sau khi thị tẩm, nhưng Hoàng hậu lại viện cớ khi xưa Hoa Phi cũng vào cung với tư cách con gái của phong thần rồi sau đó cậy công kiêu ngạo, thế là bèn ra mặt ngăn cản. Hoàng hậu xưa nay luôn hiền thục, đoan trang, Huyền Lăng vì nể mặt nàng ta, lại có vết xe đổ là Hoa Phi nên cũng không dị nghị gì. Sau chuyện này, cả bốn vị quý nhân mới sau khi thị tẩm đều không được tấn phong. Mà trong số bốn vị quý nhân mới thì Tường Quý nhân là đắc sủng nhất, thường xuyên được vời tới thị tẩm, có điều mãi vẫn chẳng được tấn phong. Nàng ta biết nguyên do bên trong, thành ra căm hận Mộ Dung Thế Lan vô cùng.

    Tường Quý nhân hết sức không phục, lại ỷ rằng mình có mấy phần nhan sắc và được Huyền Lăng ân sủng, bèn nói xấu Mộ Dung Thế Lan trước mặt Huyền Lăng một phen. Huyền Lăng cũng không tính toán, chỉ mỉm cười cho qua.

    Tương Quý tần hay tin liền cũng dâng lời rằng cần phải trừng phạt Mộ Dung Tuyển thị, qua đó xoa dịu nỗi căm phẫn của mọi người trong hậu cung. Huyền Lăng không đợi nàng ta nói xong đã trở mặt, quát đuổi nàng ta ra ngoài.

    Tôi nghe tin thì chỉ mỉm cười. Đoan Phi nói: “Tương Quý tần thông minh cả đời, hồ đồ chốc lát. Hoàng thượng vẫn còn tình cũ với Mộ Dung Thế Lan, Tường Quý nhân là phi tần mới được sủng ái, lại là con gái của công thần, làm nũng một chút, Hoàng thượng tất nhiên sẽ không nói gì. Nhưng Tương Quý tần trước đây vốn giao hảo với Mộ Dung Thế Lan, khi đó cắn ngược lại một miếng còn tạm coi là hợp thời, nhưng nếu nhiều lời thì sẽ khiến Hoàng thượng cảm thấy nàng ta là hạng vong ân bội nghĩa ngay.” Nàng ta khẽ cười, nói tiếp: “Nhất định là muội đã xúi bẩy rồi!”

    Tôi ôm gối mềm, tựa người vào chiếc sạp quý phi, mỉm cười vuốt ve mái tóc. “Nương nương thật đã coi trọng thần thiếp quá rồi, kỳ thực nàng ta cũng có tư tâm, nếu không thì sao lại nghe lọt tai lời xúi bẩy của thần thiếp được. Huống chi nương nương có thể nghĩ tới điều này, người khác chưa chắc đã không thể nghĩ tới.”

    Nàng ta nói: “Hoàng thượng tuy không nói gì nhưng mấy ngày nay lại chỉ triệu ba vị Quý nhân kia tới bầu bạn, không để tâm tới Tường Quý nhân nữa. Nàng ta vốn đắc sủng nhất nhưng lại có chút không ngoan ngoãn, bây giờ thì hay rồi!”

    Tôi búng tay cười, nói: “Nàng ta kỳ thực cũng chẳng phải là mối tai họa gì to lớn, chỉ cần lật tay một cái là trừ diệt được ngay. Thần thiếp cứ nhìn thấy nàng ta là lại nghĩ tới bộ dạng của Lệ Quý tần ngày trước.”

    Gương mặt Đoan Phi vẫn gầy guộc như xưa nhưng tinh thần, khí sắc đều đã tốt hơn nhiều, không còn vẻ bệnh tật như trước. Tôi vui vẻ nói: “Thân thể nương nương gần đây hình như đã tốt hơn nhiều rồi!”

    Nàng ta nở nụ cười tươi. “Vị Ôn thái y mà muội tiến cử cho ta y thuật quả nhiên không tệ, ta cảm thấy khi bệnh tình tái phát cũng không còn khó chịu như trước nữa.”

    Tôi dùng hộ giáp cà nhẹ lên chiếc cúc trân châu trên vạt áo, những tia sắc bén lóe hiện trong nụ cười. “Thái y thường không chỉ biết chữa bệnh mà còn biết giết người nữa.”

    Đoan Phi hơi nhướng mày, sau nháy mắt đã bình tĩnh trở lại, nói: “Đúng là có người cần phải đi rồi!”

    Tuyết lớn rơi liền một mạch mười mấy ngày mà không có dấu hiệu ngừng lại, hơi thở của năm mới ngày một nồng đậm. Các cung, viện bận rộn may thêm xiêm y mới, quét dọn sân vườn. Đường Lê cung cũng chìm trong bầu không khí vui vẻ và bận rộn như thế.

    Hôm ấy, tôi đang có tâm trạng tốt, đích thân viết một đôi câu đối rồi gọi Tiểu Doãn Tử sai người bắc thang dán lên cửa cung, một đám cung nữ tươi cười vui vẻ bu lại ngửa cổ ngắm nhìn. Tôi cười, nói: “Đợi lát nữa dán xong rồi hãy nhìn, bây giờ tất cả đều ngửa cổ như vậy, chưa biết chừng bụi đất dưới đáy giày bọn Tiểu Doãn Tử sẽ rơi cả vào mắt các ngươi đấy!”

    Bội Nhi cười hì hì, nói: “Nương nương cứ thích trêu bọn nô tỳ.”

    Tôi đứng đó trò chuyện với bọn họ một lúc, cảm thấy lạnh không chịu nổi, bèn vén rèm đi vào noãn các. Tiểu Liên Tử chạy một mạch vào theo, tôi thấy thần sắc y có vẻ khác thường, biết là có chuyện muốn nói, bèn gọi y lại. Tiểu Liên Tử thưa: “Mấy ngày nay nô tài để ý quan sát, thấy hình như luôn có người ở bên ngoài rình mò chúng ta.”

    Tôi cả kinh, cau mày hỏi: “Ngươi đã nhìn kỹ rồi chứ?”

    “Dạ!” Y đáp: “Có hai lần nô tài nhìn không rõ lắm, nhưng có hai lần đã nhìn rất rõ ràng, người đó giả bộ như đang quét dọn trong vĩnh hạng, kỳ thực là rúc dưới chân tường nghe lén.”

    Tôi thầm cảm thấy chán ghét, nhưng cũng biết việc này hệ trọng, bèn hỏi: “Có nhìn rõ kẻ đó là ai không? Người của cung nào vậy?”

    Trên mặt y thoáng lộ vẻ phẫn nộ. “Là tên thái giám hầu cận ở chỗ Mộ Dung Tuyển thị. Hình như kẻ đó còn mang theo cả đá đánh lửa trên người, rõ ràng là có ý đồ xấu. Chỉ là thị vệ trong cung canh phòng nghiêm ngặt nên hắn mới không thể đắc thủ. Nương nương, có cần nô tài bắt hắn mang đi gặp Hoàng thượng không?”

    Tôi bấu mạnh hộ giáp vào chiếc lò sưởi cầm tay, làm phát ra những tiếng ken két đinh tai của kim loại cọ xát. “Không ngờ lại dám theo dõi tình hình trong cung của ta.” Kế đó lại chợt nở nụ cười, nói tiếp: “Đừng để ý đến hắn, chỉ cần ngấm ngầm để ý từng hành động của hắn là được, chớ có rút dây động rừng.”

    Tiểu Liên Tử tuy không hiểu nhưng vẫn ngoan ngoãn vâng lời rồi cáo lui.

    Thời gian vừa qua, My Trang hết sức tức giận vì việc Huyền Lăng không phạt nặng Mộ Dung Thế Lan, về sau, nghe nói tới chuyện Tương Quý tần bị trách phạt khi đề nghị giết Mộ Dung thị thì lại càng phiền muộn. Tôi thấy tiết trời hôm nay rất đẹp, bèn đặc biệt mời My Trang tới cung của tôi đánh cờ giải khuây.

    My Trang chống cằm ngồi nghiêng người trên ghế, uể oải đặt một quân đen xuống bàn, bỗng phát hiện nước cờ không ổn liền đòi đi lại, nhưng tôi sao chịu nghe. Tỷ ấy liền đẩy bàn cờ, nói: “Thôi, thôi, ta sắp thua đến nơi rồi, không chơi nữa.”

    Tôi vội nói: “Như vậy thì coi sao được chứ, đòi đi lại không được liền giở trò vô lại, chẳng có chút phong độ nào cả, cứ như trẻ con vậy. Thôi được rồi, chúng ta chơi ván nữa nhé!”

    My Trang trêu đùa con vẹt lông trắng đậu trên chiếc giá vàng bên cạnh, nói: “Lòng ta đang phiền muộn, có chơi thêm mười ván nữa thì cũng vẫn thua thôi.”

    Tôi chậm rãi thu những quân cờ trên bàn lại, mỉm cười cất tiếng: “Muội biết tỷ đang phiền muộn điều gì, đáng tiếc, bây giờ cơ hội còn chưa tới, dù gì cũng phải tìm một lỗi lớn rồi mới có thể kết liễu tính mạng của ả ta. Suy cho cùng thì ả ta cũng đắc sủng bao nhiêu năm nay, muốn trừ khử được cũng không phải chuyện dễ dàng.”

    My Trang cắn chặt môi, khẽ nói: “Muội sao hiểu được nỗi căm hận trong lòng ta…”

    Tôi cắt ngang lời tỷ ấy, bình tĩnh nói: “Muội còn hận hơn tỷ. Đứa bé chẳng thể ra đời kia là máu thịt của muội.”

    My Trang lặng im, quay trở lại ngồi xuống trước bàn cờ.

    Sắc trời dần tối, tôi với My Trang trò chuyện câu được câu chăng về việc bốn vị quý nhân mới vào cung ai đắc sủng hơn ai. Lúc này Tiểu Doãn Tử dẫn người mang vào những ngọn nến đã thắp sẵn lửa.

    Tôi hỏi: “Kỳ Quý nhân đâu?”

    Cận Tịch đáp: “Nương nương quên rồi sao, hôm trước, Lưu Thận tần có cho người đến mời Kỳ Quý nhân hôm nay tới xem kịch.”

    Tôi khẽ “ồ” một tiếng, nói: “Tuyết vừa tan, tối muội ấy quay về e là không nhìn rõ đường trơn, ngươi hãy cho người thắp nhiều đèn lồng ngoài điện của muội ấy một chút.”

    Cận Tịch vâng lời ra ngoài, tôi thấy Tiểu Liên Tử đi cuối cùng, bèn ra hiệu cho y ở lại. Y nói: “Tới rồi, đang ở chân tường mé tây.”

    My Trang thấy y nói một câu không đầu không cuối như vậy, bất giác nảy lòng nghi hoặc. Tôi bảo Tiểu Liên Tử ra ngoài, khẽ cười nói với My Trang: “Tỷ tỷ muốn thấy Mộ Dung Thế Lan chết thế nào đây?”

    Tôi khẽ nở nụ cười, cầm một ngọn nến lên, kéo My Trang vào trong tẩm điện. Ngay cạnh tẩm điện của tôi là noãn các bên điện của Kỳ Quý nhân, lúc này nàng ta đã ra ngoài, chắc hẳn ở đó không còn ai. Tôi tiện tay đặt ngọn nến xuống dưới chiếc bàn gỗ ở góc điện, ngọn lửa “soạt” một tiếng bùng lên.

    My Trang cả kinh hỏi: “Muội định làm gì vậy?”

    Tôi chậm rãi nói: “Tỷ tỷ đừng lo, cũng đừng nói gì!” Tôi mở cửa sổ ra, từng làn gió lạnh vun vút thổi vào. Thế gió càng mạnh, ngọn lửa càng lớn. Tôi vội kéo tỷ ấy chạy ra ngoài, tiếp tục ngồi đánh cờ trong Tây noãn các như không có chuyện gì xảy ra.

    My Trang còn chưa hết kinh hoàng, tôi đoán chừng từ giờ đến khi đám cháy bị người ta phát hiện còn phải một lúc nữa, thế là bèn chọn những điểm mấu chốt nói với tỷ ấy. My Trang nở một nụ cười thư thái, buông ống tay áo vốn đang nắm chặt ra, bình tĩnh nói: “Nếu đã diễn kịch thì phải diễn cho thật giống, ta không muốn ả còn đường sống nữa đâu.”

    Tỷ ấy đột nhiên đứng dậy, chạy vào nội điện. Tôi biết là không hay, vội chạy vào theo, thấy trong điện những thứ như rèm, màn, tủ quần áo đều đã bốc cháy, ống tay áo rộng của My Trang cũng đã bắt lửa. Đầu óc tôi như nổ tung, vội bưng một chậu nước chạy tới hắt vào người tỷ ấy.

    My Trang nở một nụ cười mỉm, nhưng giọng nói lạnh tựa băng sương: “Ta còn chưa muốn chết đâu.” Sau đó, chợt lớn tiếng kêu cứu.

    Khi Huyền Lăng vội vã chạy tới thì hậu điện đã bị thiêu hủy quá nửa, khắp nơi đều là mùi đồ đạc bị cháy khét lẹt, vệt nước và những vết cháy xém nham nhở khắp nơi, khung cảnh tàn tạ vô cùng.

    Toàn thân tôi ướt sũng nước, đang lạnh run cầm cập, cố gắng quấn chiếc chăn quanh người để giữ ấm, My Trang cũng vậy. Huyền Lăng rảo bước chạy tới, quấn tôi vào trong chiếc áo choàng lông cáo ấm áp của y, khẽ nói: “Không sao rồi, không sao rồi!”

    Tôi vừa lạnh vừa sợ, đột nhiên được y ôm vào lòng mà an ủi như thế, nơi đáy lòng bất giác trào dâng cảm giác sảng khoái khi việc lớn sắp thành, nhưng ngoài miệng vẫn nghẹn ngào khóc lóc, còn cố ý tỏ vẻ sợ sệt cất tiếng gọi: “Hoàng thượng…”

    Y vội cúi đầu, chăm chú nhìn tôi. “Không có việc gì chứ?”

    Tôi ra sức lắc đầu thật mạnh, khắp mặt giàn giụa nước mắt, chỉ qua phía My Trang bên cạnh, nói: “Hoàng thượng, My tỷ tỷ…”, rồi lại tiếp tục khóc nấc lên. Ôn Thực Sơ lúc này đang đứng trước mặt My Trang, giúp tỷ ấy băng bó vết thương trên tay, Huyền Lăng buông tôi ra, nhìn qua phía My Trang hỏi: “Tiệp dư, vết thương của nàng thế nào?”

    My Trang dường như đã sợ đến nỗi ngơ ngẩn, hoàn toàn chẳng nghe thấy lời của Huyền Lăng. Tôi bật khóc nức nở. “Hoàng thượng, nhất định là tỷ tỷ đã sợ quá rồi. Đều tại thần thiếp không tốt, đang yên đang lành lại mời tỷ tỷ đến đây chơi cờ, hại tỷ ấy gặp nạn thế này.”

    Ôn Thực Sơ vội nói: “Quý Tần nương nương đừng nôn nóng, tinh thần của Thẩm Tiệp dư không có vấn đề gì, chỉ là vết thương trên tay có hơi nghiêm trọng.”

    My Trang ngẩn ngơ ngoảnh lại, vô thức đưa cánh tay lên, để lộ vết thương mới băng bó được một nửa. Chỉ thấy vết thương đó to bằng cỡ bàn tay, da thịt bị cháy đen sạm lại, rỉ máu đỏ, bên trên được rải bột thuốc xanh xanh vàng vàng, thoạt nhìn vô cùng đáng sợ.

    Huyền Lăng vừa lo lắng vừa tức giận, quay về phía sau, quát lớn: “Đang yên đang lành sao lại bị cháy? Thái giám quản sự trong cung đâu?”

    Tiểu Doãn Tử vốn đang bận rộn chạy qua chạy lại, nghe thấy Huyền Lăng quát hỏi thì vội vàng chạy tới, bẩm: “Hoàng thượng thứ tội, đều tại nô tài không cẩn thận. Có điều đã bắt được kẻ phóng hỏa rồi, đang chờ xử lý.”

    Huyền Lăng nghe thấy hai chữ “phóng hỏa” thì biến hẳn sắc mặt, nói: “Đưa hắn tới đây!”

    Kẻ phóng hỏa đã bị bắt sống, chính là tên Túc Hỷ vốn hầu hạ Mộ Dung Tuyển thị. Khi sự việc xảy ra, hắn đang thập thò lén lút bên ngoài cung của tôi, hơn nữa còn mang theo trên người cả đá đánh lửa và dầu lửa, coi như tang vật đã rõ ràng, dù hắn có ra sức kêu oan cũng chẳng ai tin.

    Đúng vào lúc này, Kỳ Quý nhân đi xem kịch quay trở về, thấy tòa điện của mình đã bị thiêu đốt tan hoang, thêm vào đó lại nghe kể về sự việc vừa xảy ra, bất giác sợ hãi vô cùng, bật khóc thương tâm.

    Sắc mặt Huyền Lăng biến hóa liên tục, My Trang thì từ đầu tới cuối thì luôn có vẻ ngẩn ngơ như đã phải quá kinh sợ. Tôi thút thít nói: “Thần thiếp thực không rõ mình đã đắc tội với vị công công này ở chỗ nào, không ngờ lại bị trả thù như vậy, nếu không có đám nô tài phát hiện sớm thì thần thiếp đã chẳng còn tính mạng để gặp Hoàng thượng nữa rồi.”

    Huyền Lăng lạnh lùng nói: “Chỉ là một kẻ nô tài thì làm gì có lá gan lớn như vậy! Mộ Dung thị xưa nay lòng dạ tàn độc, trẫm đúng là đã coi thường nàng ta quá rồi!”

    Kỳ Quý nhân đứng bên cạnh kéo tay áo Huyền Lăng, đau khổ nói: “Huynh trưởng của thần thiếp và cha anh của Hoàn Quý tần đều là công thần trong việc bình định Nhữ Nam Vương và nhà họ Mộ Dung lần này, thần thiếp lại nghe nói Mộ Dung Tuyển thị xưa nay vốn bất hòa với Hoàn Quý tần, bây giờ bị phế truất tất nhiên sẽ căm hận thần thiếp và Hoàn Quý tần vô hạn. Nếu không có người đứng đằng sau xúi bẩy, một tên thái giám nhỏ nhoi sao dám đến phóng hỏa ở Đường Lê cung, xin Hoàng thượng hãy làm chủ cho thần thiếp và Hoàn Quý tần!”

    Tóc tai tôi rối bời, chỉ tiện tay vuốt lại một chút. “Mộ Dung Tuyển thị dù có điều bất mãn thì cũng chỉ là với thần thiếp, không ngờ lại làm liên lụy tới Kỳ muội muội và My tỷ tỷ, tất cả đều là lỗi của thần thiếp.”

    Huyền Lăng kéo tôi lại, nói: “Đâu phải là lỗi của nàng, Trẫm vốn không muốn tuyệt tình quá, để nàng ta có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, làm lại cuộc đời, ai ngờ nàng ta còn trở nên tàn độc hơn. Thôi vậy!” Y nhướng cao mày, nói với Lý Trường: “Nói với Hoàng hậu và Kính Phi, lập tức cho người thẩm vấn Mộ Dung thị, nếu sự thực đúng là như vậy thì hãy đày nàng ta vào lãnh cung, ban cho cái chết, không cần bẩm báo lại với trẫm nữa.”

    Tôi ngoảnh lại, thấy My Trang nhếch mép nở một nụ cười lạnh, nơi đáy lòng cũng bất giác rộn ý cười, bỗng nhiên nhớ đến đứa con đã mất, chỉ cảm thấy vừa sảng khoái vừa đau đớn, cảm xúc phức tạp vô cùng. Hoàng hậu và Kính Phi xưa nay vẫn luôn đối địch với Mộ Dung Thế Lan, dù ả ta không phải là người đứng sau giật dây thì cũng sẽ có chứng cứ xác thực, huống hồ lần này bằng cớ đã rành rành ra đó.

    Tôi vùi đầu vào vai Huyền Lăng, lại tiếp tục nghẹn ngào khóc lóc.
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 17: Lan gãy
    Vì năm mới sắp đến nên việc xét xử Mộ Dung Thế Lan không tiện kéo dài đến năm sau, sợ sẽ không tốt lành. Túc Hỷ vừa bị thẩm vấn liền khai ra là Mộ Dung Thế Lan đứng sau xúi giục, do đó, Hoàng hậu và Kính Phi liền quyết định thẩm vấn Mộ Dung Thế Lan thâu đêm, sau đó đày nàng ta vào lãnh cung.

    Tôi tạm ở lại Tồn Cúc đường của My Trang, tuy có hơi chật hẹp nhưng bầu không khí lại hòa hợp vô cùng. Tựa hồ lúc này vẫn là hồi nhỏ, tỷ ấy thường cùng tôi chụm đầu trò chuyện nơi đầu giường, ánh trăng bên ngoài cửa sổ nhẹ nhàng chiếu xuống, như những bông hoa lê trắng ngần rải khắp mặt đất. Mái tóc của My Trang rất dài, lại dày và đen nhánh, dưới ánh trăng trông hệt như một xấp lụa thượng hạng, từ trong màn chảy ra ngoài.

    My Trang vạch ngón tay tính toán thời gian. “Hôm nay là Hai mươi lăm, cùng lắm là đến Hai mươi chín, ả tất chết chẳng sai!” Tỷ ấy khẽ cười khúc khích. “Coi như không uổng công ta tự làm mình bị thương.”

    Tôi cẩn thận quan sát miệng vết thương của tỷ ấy, oán trách: “Tỷ đúng là, việc gì phải tự làm mình bị thương như thế! May mà bây giờ trời lạnh, nếu là mùa hè nhất định sẽ mưng mủ đấy!”

    My Trang bình thản nói: “Cùng lắm cũng chỉ để lại một vết sẹo thôi, đổi lấy tính mạng của nàng ta cũng không tính là lỗ vốn. Nếu không tận mắt nhìn thấy vết thương của ta, Hoàng thượng sẽ vĩnh viễn không bao giờ biết được việc bị lửa thiêu đáng sợ đến nhường nào. Chỉ khi nhìn thấy vết thương của ta, Hoàng thượng mới nghĩ nếu đổi lại là muội thì kết quả sẽ ra sao, thế mới càng thêm căm hận Mộ Dung Thế Lan đến thấu xương.”

    Có lẽ thù hận thực sự có thể khiến tâm tư một người trở nên kín kẽ, một My Trang với dũng khí thế này khiến tôi kính phục.

    Chắc hẳn là vì bị thương nên sắc mặt tỷ ấy hơi nhợt nhạt, ánh nến như phủ lên trên đó một lớp màu đỏ bồng bềnh, khiến làn da tỷ ấy càng như trong suốt. My Trang nhìn gốc thủy tiên đang tỏa hương thầm dưới ô cửa sổ phía nam, lẩm bẩm nói: “Sau này Mộ Dung Thế Lan chết đi, ta thực không biết sẽ phải tranh đấu với ai nữa.”

    Tôi khẽ nở nụ cười mỉm, cất giọng mang theo đôi nét thê lương: “Muốn tranh đấu trong chốn hậu cung này há lại khó khăn đến thế, ai cũng có thể là kẻ địch. Mà không muốn tranh đấu cũng chẳng khó gì, cứ ngoan ngoãn im lặng là được. Người mới sẽ không ngừng tiến vào, lẽ nào tỷ tỷ còn sợ cuộc sống về sau sẽ cô đơn sao? Tỷ cứ chăm sóc vết thương của mình cho tốt, đợi sau khi nó đóng vảy, muội sẽ mang keo xóa sẹo đến cho tỷ dùng, cánh tay này đừng để có sẹo mới tốt.”

    Sáng sớm hai ngày sau, tôi đến chỗ Hoàng hậu thỉnh an, mọi người đều đã có mặt. Lăng Dung hình như đã hoàn toàn quên mất việc xảy ra trong ngày tuyết rơi lúc trước, tươi cười trò chuyện với tôi và My Trang, nói: “Nếu tỷ tỷ ở chỗ My tỷ tỷ không tiện, cứ đến chỗ muội cũng được.”

    Tôi cười, nói: “Không có gì là không tiện cả, dù sao cũng chỉ ở tạm thôi, một thời gian nữa Đường Lê cung được sửa sang xong, ta lại có thể dọn về rồi.”

    Nàng ta lại quay sang nói với My Trang vẻ quan tâm: “Thẩm tỷ tỷ chớ nên ăn mấy thứ hải sản như tôm cá đấy nhé, cũng không được uống rượu, không tốt cho vết thương đâu.”

    Đương lúc trò chuyện, Hoàng hậu lên tiếng: “Mộ Dung thị không biết hối cải, lòng dạ tàn độc, không ngờ lại sai kẻ nô tài Túc Hỷ phóng hỏa đốt Đường Lê cung, thực là tội ác tày đình, bản cung quyết định ban cái chết cho Mộ Dung thị để giết gà răn khỉ, nếu không, chốn hậu cung này sẽ chẳng còn kỷ cương, phép tắc gì nữa.”

    Những người có mặt vốn đều oán hận Mộ Dung Thế Lan đã lâu, đặc biệt trong hôm tôi bị phạt quỳ đến mất con, nàng ta đã bắt tất cả phi tần trong hậu cung phải ngồi cùng dưới trời nóng nực, thực là đã đắc tội với tất cả mọi người. Khi đó, bọn họ giận nhưng không dám nói, bây giờ thấy Hoàng hậu có ý như vậy, ai cũng sảng khoái vô cùng, nhất tề khen Hoàng hậu sáng suốt.

    Hoàng hậu trầm ngâm nói: “Mộ Dung thị dù sao cũng đã hầu hạ Hoàng thượng lâu rồi, không nên tàn nhẫn quá!” Nói rồi bèn gọi Tiễn Thu lại: “Đi nói với Lý công công, chuẩn bị rượu độc, dao găm và vải trắng, để nàng ta chọn lấy một loại mà tự vẫn, vậy cũng coi như trọn tình nghĩa từng cùng hầu hạ Hoàng thượng.”

    Hân Quý tần cất tiếng cười sảng khoái. “Hoàng hậu nhân từ, nếu đổi lại là thần thiếp, thấy nàng ta làm chuyện xấu xa như vậy, nhất định phải chặt làm hai khúc thì mới hả cơn giận.”

    Tôi tươi cười, nói: “Hân tỷ tỷ tốt nhất hãy đi làm Ngự sử phá án, gặp vụ nào thế này thì cứ chẻ đôi hung thủ, như vậy vừa tiết kiệm sức lực lại vừa thoải mái.”

    Hân Quý tần bật cười làm bộ giận dữ, khẽ vỗ vai tôi một cái, nói: “Hoàn muội muội đúng là mồm mép láu lỉnh, ta chịu thua, không nói lại được.”

    Mọi người nhất tề cười vang, duy chỉ có Tương Quý tần là thần sắc uể oải, mãi tới khi Hoàng hậu hỏi liền hai tiếng, nàng ta mới trả lời: “Thần thiếp gần đây cứ luôn cảm thấy mỏi mệt, uống liền mấy thang thuốc mà chẳng có tác dụng gì, xin Hoàng hậu nương nương thứ tội thất lễ.”

    Hoàng hậu nói: “Ngươi phải chăm sóc Công chúa, lại sắp đến năm mới, bận rộn nhiều việc, khó tránh khỏi có chút mệt nhọc.” Thế rồi bèn dặn dò nàng ta phải chú ý giữ gìn sức khỏe, sau đó mọi người liền giải tán.

    Sau khi ngủ trưa dậy, tôi hỏi Cận Tịch: “Lý công công nói bao giờ thì ban chết cho Mộ Dung thị?”

    Cận Tịch đỡ tôi ngồi dậy súc miệng, thưa: “Việc hành hình trong lãnh cung thường diễn ra vào độ hoàng hôn.”

    Tôi suy nghĩ một chút, mỉm cười, nói: “Trang điểm thật đẹp cho ta, ta phải đi đưa tiễn vị Hoa Phi nương nương tôn quý kia về cõi vĩnh hằng.”

    Thế rồi Cận Tịch bèn bới cho tôi kiểu tóc Tiên du trang nhã, lại cài lên đó những thứ đồ trang sức châu ngọc lộng lẫy, xa hoa, nhìn cứ như những vì sao lấp lánh trên bầu trời sâu thẳm. Kế đến lại mặc cho tôi một chiếc áo gấm màu tím thêu hình hoa bay bướm lượn, phần viền may bằng chỉ xanh, nhìn vô cùng bắt mắt. Sau khi trang điểm xong xuôi, Cận Tịch cười, nói: “Nương nương thực rất ít khi diễm lệ thế này.”

    Thù cũ hận mới trào dâng, nụ cười của tôi yêu kiều mà lạnh lẽo. “Lần gặp gỡ cuối cùng mà, tất nhiên phải để lại cho ả ấn tượng đẹp nhất.”

    Đường đến Khứ Cẩm lãnh cung đã rất quen thuộc đối với tôi. Mộ Dung Thế Lan lúc này đang ngồi co ro một góc, quần áo chỉnh tề, dung nhan cũng không nhếch nhác lắm.

    Ả thấy tôi chỉ dẫn Tiểu Liên Tử đi vào, liền nói: “Lá gan của ngươi cũng lớn thật đấy, đi vào lãnh cung mà chỉ dẫn theo một người.”

    Tôi thản nhiên mỉm cười. “Ta từng đến nơi này nhiều hơn ngươi, khi xưa Dư thị cũng chết ở nơi này ngay trước mặt ta.”

    Ả hơi nhếch khóe môi. “Ngươi cũng muốn thấy ta chết sao?” Ả vốn có đôi mắt phượng, khi liếc xéo lại càng toát ra vẻ xinh đẹp và sắc bén. “Ngươi ăn mặc thế này trông chẳng giống như tới đưa tiễn, mà như một ả đàn bà quê mùa đang chuẩn bị tổ chức tiệc mừng.”

    Tôi chẳng hề tức giận, cười nói: “Có thể tận mắt nhìn thấy ngươi tới thế giới Tây Phương Cực Lạc, sao còn không tính là việc mừng kia chứ? Huống chi đàn bà quê mùa dù sao cũng tốt hơn là kẻ sắp chết.”

    Ả cười lạnh. “Ngươi có gì để đắc ý chứ, chẳng qua là bày kế hãm hại ta mà thôi!” Ả giận dữ quát lên: “Ta không hề sai Túc Hỷ phóng hỏa!” Kế đến lại thở dốc. “Hắn tuy là người trong cung của ta nhưng chẳng phải là tâm phúc, ta sao có thể sai khiến hắn đi làm việc đó được!” Đương cơn giận dữ, ả nhảy bổ đến định bóp cổ tôi. Tôi chẳng thèm né tránh, khi bàn tay ả sắp chạm đến người tôi thì Tiểu Liên Tử đưa chụp lấy đôi tay ả, bẻ ngược ra phía sau, ép chặt ả vào tường.

    Lớp vôi quét tường vốn đã ẩm mốc từ lâu, vừa bị va vào liền loạt soạt rơi xuống, một nửa khuôn mặt của Mộ Dung Thế Lan lập tức bị bột vôi phủ lên, ả ho sù sụ một hồi, vừa giãy giụa vừa điên cuồng gào lên: “Ngươi đổ oan cho ta…”

    Tôi phẩy nhẹ chiếc khăn tay, tươi cười nói: “Ngươi nhầm rồi… Là Hoàng thượng đổ oan cho ngươi, không phải ta. Ta chẳng qua chỉ… hãm hại ngươi mà thôi!” Thoáng dừng một chút, tôi lại tiếp: “Có điều, ngươi cũng không là oan uổng gì, Thuần Tần chết đuối là do ngươi hại đúng không? Việc bỏ bột sắn vào đồ ăn của Ôn Nghi Công chúa cũng là ngươi làm đúng không? Kẻ xúi Dư Canh y hạ độc vào thuốc của ta, đẩy My Trang xuống nước, sai khiến Giang Mục Dương, Giang Mục Y vu cho My Trang giả vờ có thai để tranh sủng, cũng đều là ngươi đúng không? Lấy chuyện phóng hỏa thiêu Đường Lê cung đổ oan cho ngươi kỳ thực cũng chẳng tính là gì.”

    Ả ngẩng đầu, “hừ” lạnh một tiếng. “Ta biết ngay mà, ả tiện tỳ Tào thị kia dám cắn ngược lại ta nhất định là do ngươi sai khiến, dựa vào mình ả thì làm gì có lá gan chó đó!”

    Tôi lắc đầu cười rộ, dải tua bên dưới cây trâm cài tóc phát ra những tiếng tinh tang vui tai. “Ngươi đúng là chẳng hiểu gì về nhân tình thế thái. Ngươi năm lần bảy lượt lợi dụng Ôn Nghi để tranh sủng, thậm chí còn không tiếc lấy tính mạng nó ra làm trò đùa, Tương Quý tần thân là mẹ ruột, có lý đâu lại không căm hận? Ngươi cho rằng việc nàng ta hận ngươi mới bắt đầu từ ngày hôm nay sao? Băng dày ba thước chẳng thể do cái lạnh trong một ngày. Lẽ ra ngươi phải biết nàng ta đã có dị tâm từ sớm mới đúng.”

    Thần sắc ả biến đổi liên hồi, kế đó liền cất giọng khinh miệt: “Với uy thế của ta năm xưa, đến mụ già Hoàng hậu kia còn phải nể ta mấy phần, Tào thị chẳng qua chỉ là một con chó dưới tay ta, ta việc gì phải để mắt đến ả!”

    Tôi vuốt nhẹ lớp viền lông mềm mại trên ống tay áo, giữa chốn lãnh cung ẩm thấp, lạnh giá này, mỗi câu nói bật ra đều kèm theo một làn khí trắng ấm áp. Tôi chậm rãi nói: “Nếu là một con chó thì đã tốt, ít nhất nó cũng rất mực trung thành. Con người không giống chó, con người xảo quyệt hơn chó nhiều.”

    Ả nhướng mày, hít thở nặng nề. “Tiện nhân! Ngươi với ca ca, tẩu tẩu ngươi đều xảo quyệt như nhau. Nếu không phải ca ca ngươi dùng quỷ kế khiến Vương gia buông lỏng sự cảnh giác với hắn, hắn sao có thể dễ dàng lấy được bản danh sách đó, như vậy họ Mộ Dung và Nhữ Nam Vương cũng không rơi vào cảnh thất bại! Các ngươi kẻ trong cung, kẻ ngoài cung thông đồng với nhau chính là muốn dồn ta vào chỗ chết!”

    “Nếu không phải Nhữ Nam Vương kiêu căng, ngang ngược, gia tộc Mộ Dung làm ma trành cho hổ, kết cục này há lại xảy ra? Ngươi chớ nên quên, phu quân của ngươi là Hoàng đế há lại cho phép những kẻ có thể uy hiếp tới mình tồn tại? Ngươi cho rằng Hoàng thượng có thể dung tha cho bọn họ, thực là quá ngây thơ!” Giọng nói của tôi lạnh băng, khiến khuôn mặt vốn xinh đẹp của ả tái nhợt đi.

    Ả uể oải ngồi xuống đống cỏ khô, gắng gượng phản bác: “Bọn họ đều là phần tử có công, vì Đại Chu mà giết địch nơi sa trường, chiến công hiển hách…”

    Tôi lạnh lùng ngắt lời ả: “Có chiến công hiển hách thế nào thì cũng vẫn là thần tử của quân vương, nếu ở trên quân vương thì há chẳng phải là mưu phản?”

    Ả im lặng không nói, tôi cũng lặng im. Đúng lúc này, Lý Trường dẫn người tiến vào, hành lễ với tôi, lại bày xuống trước mặt Mộ Dung Thế Lan mấy chiếc khay gỗ có đặt dao găm, rượu độc và dải vải trắng, cung kính nói với ả: “Vâng ý chỉ của Hoàng hậu, xin tiểu chủ hãy tự nhận lấy một món.”

    Mộ Dung Thế Lan tỉnh táo trở lại, đưa mắt liếc nhìn y, lạnh lùng nói: “Ý chỉ của Hoàng hậu? Vậy ý chỉ của Hoàng thượng thì sao? Mang tới đây!”

    Lý Trường vẫn cúi rạp đầu, thưa: “Ý của Hoàng thượng là giao cho Hoàng hậu toàn quyền xử lý việc này, mời tiểu chủ!”

    Ả nín thở trong khoảnh khắc, cất giọng nặng nề: “Không có thánh chỉ của Hoàng thượng, Mộ Dung Thế Lan ta tuyệt đối không chịu chết.” Nở một nụ cười thê lương, trong giọng nói của ả mang theo nỗi căm hận vô cùng: “Y đã chính miệng sai giết chết cha anh của ta, còn sợ phải hạ một đạo thánh chỉ nữa với ta sao?”

    Lý Trường vẫn giữ nguyên bộ dạng kính cẩn. “Hoàng thượng đã nói rồi, không muốn nghe thêm bất kỳ chuyện gì về tiểu chủ nữa.”

    Ả cười lạnh một tiếng, dường như đang tự hỏi mình: “Hoàng thượng chán ghét ta đến mức đó sao?” Nói rồi liền chỉnh sửa lại quần áo và búi tóc, chiếc túi thơm may bằng gấm trắng đeo trên váy nhìn bắt mắt vô cùng, mùi thơm tỏa ra từ đó chính là Hoan nghi hương nồng đậm và quen thuộc. Tôi cau mày vẻ chán ghét, vô thức lùi lại hai bước. Ả đường hoàng khoanh chân ngồi xuống, nói: “Ngươi đi xin ý chỉ của Hoàng thượng tới đây.”

    Lý Trường tiến thoái lưỡng nan, tôi thấy vậy bèn nói với y: “Lý công công không cần nôn nóng, hãy để ta nói vài câu từ biệt với Mộ Dung tiểu chủ trước đã.”

    Lý Trường vội nói: “Mời nương nương, nô tài xin đợi ở bên ngoài.”

    Thấy Lý Trường đã đi ra ngoài, tôi cười, nói với Mộ Dung Thế Lan: “Xin lỗi nhé, lâu nay ta vốn quen xưng hô là ‘nương nương’ rồi, đột nhiên phải sửa lại thành ‘tiểu chủ’ quả không dễ dàng gì.”

    Ả đưa mắt liếc xéo tôi, hờ hững nói: “Tùy ngươi, dù sao ta cũng sắp chết rồi!”

    Tôi đưa chiếc lò sưởi cầm tay đang ôm trong lòng cho Tiểu Liên Tử, nói: “Lò sưởi của bản cung lạnh rồi, ngươi ra ngoài cho thêm mấy cục than vào đi.”

    Tiểu Liên Tử do dự không chịu đi, khuôn mặt lộ vẻ đề phòng. “Nàng ta…”

    Tôi nói: “Ngươi cứ đi đi, có động tĩnh gì thì vẫn còn có Lý công công ở bên ngoài kia rồi.”

    Tiểu Liên Tử vâng lời ra ngoài. Tôi đứng trước mặt Mộ Dung Thế Lan, hỏi: “Ngươi có biết tại sao Hoàng thượng lại chán ghét ngươi không?”

    Ả khẽ lắc đầu, bàn tay nhẹ nhàng mân mê chiếc túi thơm, cất tiếng: “Trước đây Hoàng thượng rất sủng ái ta, dù ta có phạm phải lỗi lầm lớn đến mấy, Hoàng thượng có tức giận đến mấy, cũng sẽ không nỡ ghẻ lạnh ta quá lâu.”

    Tôi hờ hững hỏi: “Vậy tại sao Hoàng thượng lại sủng ái ngươi, ngươi có từng nghĩ tới chưa?” Tôi nở nụ cười lạnh lẽo. “Chỉ bởi vì ngươi đẹp thôi sao? Trong chốn hậu cung này chưa từng thiếu nữ nhân xinh đẹp.”

    Ả phì cười. “Ngươi định nói vì ta mang họ Mộ Dung nên Hoàng thượng mới sủng ái ta sao? Đoan Phi cũng xuất thân từ gia đình tướng lĩnh cơ mà.” Ả thoáng lộ vẻ bất an, hơi dịch người qua bên cạnh.

    Tôi bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt ả. “Kỳ thực trong lòng ngươi đã có đáp án, hà tất phải dối mình dối người như vậy?”

    Hai bàn tay nắm chặt vào nhau, Mộ Dung Thế Lan gằn giọng quát: “Ngươi nói bậy! Hoàng thượng sao có thể không có chút tình cảm nào với ta được!”

    Nụ cười bên khóe môi lại càng nồng đậm, tôi chậm rãi nói: “Có lẽ là có, nhưng dù vậy thì sau bao năm hống hách của ngươi và nhà họ Mộ Dung, chút tình cảm ấy cũng đã tiêu hao hết rồi, chẳng còn lại một chút.”

    Ả khẽ nở nụ cười với vẻ đơn thuần và ngây thơ, tựa một áng mây lững lờ buổi sáng, rồi sắc mặt ả dần bình tĩnh trở lại, chậm rãi nói: “Vậy sao? Năm đó ta mới mười bảy, chỉ biết rằng mình có thân phận tôn quý, vừa vào cung đã được phong làm Hoa Tần. Đó là một buổi sáng ngày hè, ta dong ngựa chạy trong khu rừng ở Thái Bình hành cung. Khắp cả hậu cung chỉ có một mình ta dám cưỡi ngựa, Đoan Phi tuy là con nhà tướng nhưng cũng không dám so bì. Kết quả là Hoàng thượng xuất hiện, người đã ngăn ta lại, kéo ta xuống ngựa. Khi đó ta rất sợ hãi, sợ người sẽ trách mắng ta, nhưng ngoài miệng vẫn tỏ vẻ không phục, còn muốn đua ngựa với người. Kết quả là người tươi cười đồng ý, khi đua ngựa thắng người, nhưng người cũng không tức giận, còn cưỡi chung ngựa với ta. Chính trong buổi tối hôm đó, Hoàng thượng đã sủng hạnh ta.” Ả đắm chìm vào dòng hồi ức ngọt ngào, dưới làn ánh sáng lờ mờ trong lãnh cung, nhìn hệt như một bông hồng kiều diễm đang nở rộ trên một khúc gỗ mục ruỗng. “Năm đó, ta mới mười bảy thôi, vậy mà đã trở thành nữ nhân đắc sủng nhất trong hậu cung rồi. Người nói trong cung có bao nhiêu nữ nhân như vậy, nhưng ai cũng sợ người, duy có ta là không, nên người chỉ thích một mình ta.” Khẽ thở dài một tiếng, ả nói tiếp: “Nhưng nữ nhân trong cung thực sự quá nhiều, nhiều đến mức khiến ta tức giận. Đêm nay người nghỉ ở chỗ phi tử này, đêm mai lại dừng chân ở chỗ phi tử khác, ta thường xuyên chờ đợi, chờ đợi đến tận lúc trời sáng, nhưng người vẫn không đến chỗ ta.”

    Ả đột nhiên đưa mắt nhìn tôi. “Ngươi có biết cái cảm giác phải chờ từ khi trời tối đến khi trời sáng là như thế nào không?”

    Tôi không nói gì, trong lòng trào dâng muôn vàn cảm xúc đan xen. Liệu có không? Hình như là không. Ngay từ sớm tôi đã biết y là kẻ quân vương, buổi đêm của y không thuộc về một mình tôi. Tôi có thể mất ngủ nhưng sẽ không bao giờ chờ y đến khi trời sáng.Ả khẽ nở nụ cười, trời đang lạnh, khi nói chuyện luôn có làn hơi trắng ấm áp từ miệng bay ra, khiến khuôn mặt ả như toát lên một vẻ rạng rỡ và chua xót không chân thực. “Ngươi đâu có thích Hoàng thượng được đến thế. Rất nhanh ta đã có thai, người rất mừng, tấn phong ta làm quý tần. Nhưng dần dần người không còn vui mừng như thế nữa, tuy người không nói gì nhưng ta có thể cảm nhận được. Ta biết điều mà người lo lắng, thế là bèn nói với người, không sao đâu, ta nhất định sẽ sinh được một hoàng tử. Nhưng chẳng bao lâu sau, ta uống bát thuốc an thai mà Đoan Phi mang tới, thế là đứa bé của ta đã chẳng còn. Đoan Phi xưa nay luôn thật thà, không ngờ lại dám…”

    Vẻ mặt ả tràn ngập nỗi đớn đau, gần như có chút điên cuồng, giọng nói cũng trở nên thảm thiết: “Thái y nói với ta, đó là một nam thai đã thành hình!”

    Lòng tôi đau như cắt, nước mắt lã chã rơi, lao tới túm chặt lấy cổ tay ả, hằn học nói: “Con của ngươi mất rồi, ngươi liền muốn con của ta phải bồi táng sao? Nó ở trong bụng ta mới được bốn tháng, không ngờ ngươi lại muốn dồn nó vào chỗ chết!”

    Mộ Dung Thế Lan ra sức đẩy tay tôi ra, tôi bóp càng lúc càng chặt, để lại trên cánh tay trắng nõn của ả mấy vệt tím bầm. Ả đẩy một hồi không được, cuối cùng liền không thèm giãy giụa nữa, cười gằn hai tiếng lạnh lùng, lớn giọng nói: “Ta không giết con của ngươi! Là tự ngươi thân thể chẳng ra gì, mới quỳ có nửa tiếng đã sẩy thai. Là tự ngươi không giữ được con của mình, sao lại đến trách ta?” Khuôn mặt ả trở nên đỏ bừng sau một hồi giãy giụa. “Ta hận Hoàng thượng chỉ sủng ái mình ngươi! Ta chưa từng thấy Hoàng thượng sủng ái nữ nhân nào như thế, có ngươi trong cung, Hoàng thượng sẽ không để ý đến ta nữa. Ta không muốn lại phải đợi Hoàng thượng đến khi trời sáng, nữ nhân nào dám tranh sủng với ta đều phải chết! Ta đã sai Dư Canh y hạ độc giết ngươi nhưng ta không giết đứa con trong bụng ngươi!”

    Tôi đẩy ả ra, lại ném cổ tay ả xuống, ánh mắt dừng lại trên chiếc túi thơm kia, nước mắt tuôn rơi dào dạt, trong lòng ngợp đầy nỗi oán hận tột cùng. “Ngươi không giết nó ư? Cho dù ngươi không cố ý nhưng nếu không vì Hoan nghi hương trong cung của ngươi, thân thể ta sao có thể yếu đuối đến nỗi mới quỳ nửa canh giờ đã sẩy thai được!”

    Ả vừa nghi hoặc vừa sợ hãi. “Hoan nghi hương?”

    Tôi nở nụ cười, những giọt nước mắt nóng bỏng dần trở nên băng giá. “Ngươi có biết tại sao sau khi mất con, mãi một thời gian dài mà ngươi không thể có thai không? Đó là bởi vì trong Hoan nghi hương mà ngươi dùng có xạ hương, ngươi đã dùng lâu như vậy rồi, vĩnh viễn không thể có thai được nữa.”

    Khuôn mặt ả trở nên méo mó vì sự phẫn nộ và sợ hãi, trông đáng sợ vô cùng. “Ngươi ăn nói bậy bạ! Hoan nghi hương đó là do Hoàng thượng ban cho ta, sao có thể…”

    Tôi bật cười lạnh lẽo. “Sao lại không thể? Nếu không phải là ý của Hoàng thượng thì tại sao không có thái y nào nói với ngươi là trong thân thể ngươi có xạ hương? Tạm chưa nói tới việc ngươi không thể có thai, ngươi cho rằng khi đó ngươi sẩy thai là do bát thuốc an thai của Đoan Phi mang tới sao? Đoan Phi chẳng qua chỉ gánh tội thay Hoàng thượng mà thôi, dù ngươi có ép nàng ta uống nhiều canh hồng hoa đến mấy thì cũng không đòi lại đứa bé kia được.”

    Ả đờ người ra, bàn tay nắm chặt chiếc túi thơm, dường như muốn bóp nát nó. Hồi lâu sau, ả cười điên cuống, cất giọng thẫn thờ nói: “Tại sao? Tại sao?”

    Một chút không đành lòng bất giác thoáng qua, nhưng tôi rất nhanh đã dặn mình phải thật cứng rắn, chậm rãi nói từng từ: “Bởi vì ngươi mang họ Mộ Dung, ngươi là người của Nhữ Nam Vương, nếu ngươi sinh con trai, bọn họ sẽ đưa đứa bé đó lên ngôi và phế truất Hoàng thượng…” Tôi không nói tiếp, điều mấu chốt bên trong ả tất nhiên hiểu được.

    Trên vạt áo Hoa Phi thấm đầy nước mắt. Một lát sau, ả không khóc nữa, nước mắt trên mặt cũng dần khô, rồi ả ngẩng đầu cười rộ, thân thể run lẩy bẩy một hồi: “Hoàng thượng, Hoàng thượng, người hại thần thiếp khổ quá!”

    Tiếng cười còn chưa dứt, chỉ nghe “bộp” một tiếng, máu tươi bắn ra tung tóe, dính cả vào mặt tôi. Tôi vội nhắm mắt, lùi lại hai bước, khi mở mắt ra, ả đã đập đầu vào tường, thân thể mềm nhũn ngã gục trên mặt đất, bàn tay vẫn nắm chặt chiếc túi thơm có đựng Hoan nghi hương kia, đến chết vẫn chẳng buông. Bức tường trắng xóa nhuốm một mảng màu đỏ thắm, những giọt máu bắn tung tóe khắp nơi, như tạo thành vô số bông hoa đào rực rỡ.

    Trên mặt và váy áo của tôi dính đầy máu, trái tim như trở nên trống rỗng, đứng suốt hồi lâu không thể động đậy.

    Bầu không khí chìm trong tĩnh lặng, tĩnh lặng vẻ chết chóc.

    Tôi vô thức đưa khăn lên lau vết máu trên mặt và quần áo mình, chợt nghe “chít chít” mấy tiếng, một con chuột béo núc ních mở to cặp mắt ti hí bò rất nhanh qua thân thể Mộ Dung Thế Lan.

    Tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi, ruột gan nhộn nhạo, nơi cổ họng như có gì đó xộc lên, bèn vội vã xoay người, chạy nhanh ra ngoài.

    Lý Trường thấy tôi chạy ra ngoài liền vội vàng cất tiếng gọi: “Nương nương.” Nhìn chỗ máu dính đầy trên người tôi, y lại càng tỏ ra lo lắng và nghi hoặc.

    Tôi cố gắng trấn định tâm thần, nói: “Mộ Dung tiểu chủ đã đập đầu vào tường tự vẫn, ngươi có thể quay về phục mệnh rồi!”

    Hắn cả kinh nhưng rất nhanh đã bình tĩnh trở lại. “Dạ, nô tài đi thu dọn một chút.”

    Tôi khẽ gật đầu, chậm rãi rời đi.

    Giữa bầu không khí giá lạnh, chóp mũi tôi có cảm giác hơi đau đớn, tay chân đều lạnh băng. Mộ Dung Thế Lan đã chết, nữ nhân mà tôi vẫn luôn căm hận đó đã chết thật rồi.

    Tôi nên cảm thấy vui vẻ, đúng không? Nhưng tại sao tôi lại không hề có cảm giác đó, chỉ thấy sợ hãi và đau thương. Hồi mười bảy tuổi, ả vào cung và được sủng ái, chắc không bao giờ ngờ được mình lại có kết cục như ngày hôm nay. Nữ nhân đã từng tung hoành trong chốn hậu cung bao năm nay đó, ả đã bị vị phu quân kề vai chung gối của mình bày kế làm mất đứa con, cả đời không thể sinh nở.

    Tất cả mọi nỗi bi ai của ả chỉ bởi ả là con gái kẻ địch chính trị của Huyền Lăng, hơn nữa còn bị sự sủng ái có mục đích của Huyền Lăng khiến cho mất đi sự tỉnh táo và trí thông minh vốn có.

    Tôi ngước mắt, thấy trời đã về chiều, gốc cây già trước mặt đang vươn cao những cành khỏe khoắn, bày ra tư thế hết sức hoang lương. Màu trắng của tuyết như trải dài vô tận, phía đằng xa có tiếng pháo nổ rền vang, vầng tà dương đỏ như màu máu.

    Tôi thở dài một hơi, năm mới sắp tới rồi, cái chết của Mộ Dung Thế Lan sẽ bị nhấn chìm trong niềm vui đón năm mới, không còn ai buồn hỏi han. Sau khi chết, vị sủng phi từng hiển hách một thời ấy chỉ nhận được một chữ “Thuận” làm tên thụy, không có bất cứ sự truy phong hay tang lễ nào, được mai táng qua loa trong bãi tha ma dành cho cung nữ và thái giám. Mà trong buổi toàn cung hội họp dịp năm mới, Tương Quý tần đổ bệnh không thể tham gia.

    Đoan Phi nghe nói tới cái tên thụy kia của Mộ Dung Thế Lan thì bất giác khẽ cười một tiếng, nói với tôi: “Thuận? Cô ta nào có từng ‘ôn thuận’ bao giờ, cái tên thụy này thực mang đầy vẻ giễu cợt.”

    Thân thể Đoan Phi khỏe dần lên, bắt đầu tham gia một số bữa tiệc mừng dịp năm mới, bù vào chỗ trống mà Hoa Phi để lại. Dưới cục diện một hậu, hai phi, ba quý tần đơn giản, cuộc sống nơi hậu cung bình lặng lạ thường. Trong số các quý nhân mới, Tường Quý nhân Nghê thị dần bị ghẻ lạnh, Phúc Quý nhân Lê thị thì vì nhan sắc hơi kém mà không đắc sủng lắm nhưng nàng ta cũng chẳng mấy để bụng, luôn tươi cười vui vẻ. Thụy Quý nhân Lạc thị phong thái tao nhã, tuy không cố gắng tranh sủng nhưng lại khá được Huyền Lăng tán thưởng. Còn người đắc sủng nhất không ai khác ngoài Kỳ Quý nhân Quản thị.

    Tôi ngồi trong Phi Hương điện của Đoan Phi, chậm rãi bóc một quả quýt, vứt vỏ quýt vào trong chậu than, rất nhanh trong điện đã ngợp đầy một mùi thơm thanh tân. Đoan Phi cầm lấy thanh lăn ngọc đưa lên mặt nhẹ nhàng lăn lên lăn xuống, nói: “Hôm qua ngủ dậy, ta phát hiện nơi khóe mắt đã có nếp nhăn, chợt nhớ ra mình đã hai mươi bảy tuổi rồi!”

    Tôi cười, nói: “Gần đây hình như nương nương khá có hứng thú với việc trang điểm thì phải.”

    Nàng ta cười hờ hững. “Vậy sao? Nữ nhân mà, ai cũng giống nhau thôi!”

    Tôi đứng dậy, nghiêm túc khom người hành lễ, nàng ta ngạc nhiên hỏi: “Muội có ý gì vậy?”

    Tôi nói: “Túc Hỷ không phải tâm phúc của Mộ Dung thị, Mộ Dung thị cũng không hề sai hắn đi phóng hỏa, tuy ban đầu hắn kiên quyết phủ nhận nhưng rất nhanh sau đó đã cung khai, chắc hẳn chính là người của nương nương. Cũng chỉ có nương nương mới có thể an bài một người như vậy trong cung mà không bị ai nghi ngờ.”

    Nàng ta cười khẽ, đôi mắt nheo lại thành một đường hẹp dài, trong sự dịu dàng lại toát ra những tia sắc bén. “Đúng thế, có ai lại để tâm tới một phi tử nằm bệnh lâu ngày chứ. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, nếu người chủ trì việc thẩm vấn không phải là Hoàng hậu và Kính Phi, chỉ e việc lần này sẽ không dễ dàng kết thúc như vậy.”

    Tôi trầm giọng nói: “Đến tay ai mà chẳng giống nhau, muốn tìm một người thích Mộ Dung thị ở trong chốn hậu cung này thực khó khăn vô cùng. Hơn nữa, việc ném đá xuống giếng thì ai cũng biết làm cả.”

    Đoan Phi nhẹ nhàng cất tiếng: “Muội bất tất phải cảm ơn ta, ta chẳng qua cũng chỉ vì bản thân mình mà thôi!”

    Tôi cười, nói: “Nhưng có một chuyện thần thiếp nghĩ mãi không thông, nếu Túc Hỷ là người nương nương an bài, tại sao lại không phóng hỏa luôn từ sớm, cứ đứng rình mò bên ngoài suốt mấy ngày liền, còn bị nô tài của thần thiếp phát hiện ra nữa?”

    Nàng ta chậm rãi bỏ một múi quýt vào miệng, cười nói: “Vốn đâu cần muội đích thân ra tay, đáng tiếc mấy ngày trước đang là dịp tuyết tan, bên ngoài ẩm ướt, không tiện phóng hỏa, do đó mới chậm trễ vài ngày.” Nàng ta dừng một chút rồi lại tiếp: “Cho dù có bị bắt cũng chẳng sao, trên người hắn mang sẵn đá đánh lửa và dầu hỏa, cứ đẩy cái tội danh mang ý đồ xấu xa kia qua cho Mộ Dung Thế Lan là được.”

    Tôi nở nụ cười thư thái. “Nếu như thế thì tội danh không thể lớn bằng phóng hỏa làm người khác bị thương.” Tôi chăm chú nhìn nàng ta. “Nương nương rốt cuộc đã báo được thù rồi, nhưng không biết người có dự tính gì cho tương lai chưa?”

    Nàng ta ngơ ngẩn xua tay, ánh mắt lộ rõ vẻ buồn bã. “Tương lai? Bản cung không con không cái, tương lai có thể dựa vào ai được?”

    Tôi đang định trả lời, đột nhiên Cận Tịch vội vã chạy vào bẩm báo: “Nương nương, Tương Quý tần chết rồi!”

    Tôi cả kinh nhưng rất nhanh đã bình tĩnh trở lại. “Ngươi chú ý lo liệu một chút, cần đưa tới cái gì thì cứ đưa, đợi lát nữa bản cung sẽ tới Hòa Hú điện.”

    Đoan Phi thấy nàng ta đã ra ngoài, bèn nhìn tôi hỏi: “Muội đã an bài ổn thỏa, không có chút sơ sẩy gì chứ?”

    Tôi bình tĩnh nói: “Dạ. Việc bỏ thuốc bắt đầu từ nửa tháng trước, tính toán thời gian thì cũng tới lúc phát tác rồi. Ôn thái y tính toán lượng thuốc rất cẩn thận, chắc sẽ không có vấn đề gì đâu. Thần thiếp từng ngầm hỏi y, y nói sau khi uống thứ thuốc này sẽ thường xuyên gặp ác mộng, thêm vào đó việc phế truất Mộ Dung Thế Lan là do nàng ta tố cáo, bây giờ chết đi thì vừa hay hợp lý vô cùng, ai ai cũng sẽ cho rằng nàng ta vì áy náy nên mới mắc tâm bệnh mà chết.”

    Đoan Phi thoáng suy nghĩ một chút rồi nói: “Vậy thì tốt. Tào Cầm Mặc tâm kế thâm sâu, lại biết việc muội lật đổ Mộ Dung Thế Lan, nếu ngày sau cắn ngược lại thì rất nguy hiểm.” Dừng một chút, nàng ta nói tiếp: “Người thầy thuốc vốn có tấm lòng nhân từ, lần này thực là khó xử cho Ôn thái y, tâm tính của y khác chúng ta nhiều lắm.”

    Tôi hơi cúi đầu, Ôn Thực Sơ luôn bằng lòng hy sinh tất cả vì tôi, kể cả là giết người, chỉ cầgiúp được tôi thì hắn sẵn sàng ra tay, dù rằng nơi đáy lòng vẫn cảm thấy bất nhẫn.

    Tào Cầm Mặc tuy bắt tay hợp tác với tôi nhưng cả hai bên đều mang lòng đề phòng, trắng trợn giết chết hẳn nhiên là không sáng suốt, ám sát cũng chưa chắc có thể làm được gọn ghẽ, duy có cách bỏ thuốc là không để lại dấu vết gì.

    Có điều, tuy cảm động về những việc làm của Ôn Thực Sơ nhưng tôi lại chẳng mấy để tâm. Không biết những nữ tử khác trên thế gian này có giống tôi không, bất kể nam tử mà mình không yêu hy sinh nhiều thế nào, trái tim tôi cũng chẳng hề xao động.

    Tôi gạt những suy nghĩ vu vơ qua một bên, nhếch môi cười lạnh. “Nếu không có nàng ta đứng một bên bày mưu vạch kế, Mộ Dung Thế Lan cũng không tàn nhẫn đến mức như vậy.”

    Đoan Phi gật đầu, nói: “Trước đây, nàng ta vì lợi ích của mình mà bán đứng Hoa Phi, khó đảm bảo rằng sau này sẽ không bán đứng muội. Hoa Phi tuy tàn ác độc đoán nhưng sau khi mất đi sự nâng đỡ của gia tộc thì đã trở thành con hổ không nanh, không vuốt, chẳng hề đáng sợ. Tào Cầm Mặc thì lại không dễ đối phó lắm. Bây giờ thì nàng ta đã chết, muội coi như không còn mối lo gì nữa rồi.” Đoan Phi nở nụ cười lạnh lẽo. “Ngày đó, Mộ Dung Thế Lan phạt muội phải quỳ dưới trời nắng, nếu Tào Cầm Mặc chịu đứng ra khuyên nhủ đôi lời, Mộ Dung Thế Lan rất có thể sẽ chịu nghe, như thế cái thai trong bụng muội cũng không bị sẩy. Hơn nữa hồi muội mới có thai, là ai đã va vào bụng Điềm Tần trong cung của Hoàng hậu?”

    Tôi quay lưng về phía ánh dương bên ngoài cửa sổ, trên hộ giáp lấp lánh những tia sáng lạnh băng. Tôi lạnh lùng nói: “Giết thì cũng đã giết rồi, nương nương bất tất phải nhắc lại chuyện ngày xưa, chỉ khiến người ta thêm căm ghét nàng ta thôi.”

    Đoan Phi khẽ buông tiếng thở dài. “Chỉ đáng thương cho Ôn Nghi Công chúa, còn ít tuổi mà đã mất mẹ.”

    Tôi ngoảnh lại, vén rèm cửa sổ, nhìn về phía cung điện của Tào Cầm Mặc mà nở một nụ cười hờ hững. “Vừa rồi không phải nương nương lo lắng khi về già không có ai nương tựa sao? Nếu Ôn Nghi Công chúa có một vị nghĩa mẫu như nương nương, sau này nhất định sẽ ngoan ngoãn hiểu chuyện, mà Hoàng thượng chắc cũng không dị nghị gì.”

    Nàng ta cười hỏi: “Món đại lễ mà muội nói tới trước đây chính là chỉ việc này sao?”

    Tôi lẳng lặng mím chặt môi, nói: “Nương nương yêu quý Công chúa như vậy, nhất định sẽ coi Công chúa như con ruột của mình, hết mực thương yêu. Đây là nơi chốn tốt nhất rồi, mong là Tương Quý tần có thể ngậm cười nơi chín suối.” Sau đó lại thở dài than: “Cận Tịch từng khuyên thần thiếp nhổ cỏ nhổ tận gốc, tránh gây tai họa sau này. Nhưng dù sao Công chúa cũng còn nhỏ, thần thiếp không thể xuống tay được.”

    Nàng ta đưa mắt nhìn tôi, cười tươi tắn, nói: “Nếu được ta nuôi nấng, dù sau này Ôn Nghi Công chúa có biết nguyên nhân cái chết của mẹ nó thì cũng nhất định sẽ nghĩ tới ơn dưỡng dục của người nghĩa mẫu ta đây.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Công chúa còn nhỏ, sau khi trưởng thành chưa chắc đã nhớ được mẹ ruột của mình. Huống chi, mẹ ruột chẳng thân bằng mẹ nuôi, có nương nương chăm sóc, nó chưa chắc đã biết Tương Quý tần chết như thế nào đâu.”

    Đoan Phi chân thành nói: “Ta nhất định sẽ hết sức thương yêu Ôn Nghi Công chúa, mang lại cho nó mọi thứ mà ta có thể.”

    9

    Bảy ngày sau, Tương Quý tần được truy phong làm Tương Phi, đưa đi chôn cất. Do đang trong tháng Giêng nên tang lễ được cử hành khá đơn giản, ngoài ra vì Hoàng hậu đã nuôi dưỡng hoàng trưởng tử nên Ôn Nghi Công chúa được giao cho Đoan Phi nuôi nấng. Kính Phi thấy vậy thì khá cảm thán, lén nói với tôi: “Ta thực hâm mộ Đoan Phi nương nương quá, bây giờ có con rồi, có thể tranh thủ thời gian rảnh rỗi mà nuôi dạy, sau này còn có chỗ để nương tựa nữa.”

    Tôi cười, nói: “Nương nương còn trẻ thế này, lo gì không sinh được con.” Ngoài miệng nói vậy nhưng trong lòng tôi lại thầm lo lắng, sẩy thai đã lâu như vậy rồi, lại thường xuyên được Hoàng thượng sủng hạnh, tại sao tôi vẫn chưa có thai chứ?

    Nghĩ thế, nỗi ưu sầu chầm chậm lan tỏa khắp trái tim tôi.
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 18: Tỉnh dậy ta cười với thân ta
    Năm Càn Nguyên thứ mười sáu đã tới trong những cuộc phong ba lúc nghỉ lúc dừng như thế. Hoàng hậu chủ trì lục cung, thù cũ đã qua, người mới thì không đáng để lo lắng, tôi vẫn tiếp tục sống yên ổn trong hậu cung, làm một phi tử đắc sủng của Huyền Lăng. Mỗi khi rảnh rỗi, tôi thường triệu Ôn Thực Sơ tới, nhờ hắn giúp điều dưỡng thân thể, mong sớm có thai. Cái chết của Mộ Dung Thế Lan khiếnôi hiểu rằng tình yêu trong chốn cung đình này quá ư bạc bẽo, chẳng đáng tin bằng cốt nhục của bản thân.

    Thế rồi Ôn Thực Sơ liên tục ra vào Tồn Cúc đường, một mặt điều dưỡng thân thể cho tôi, một mặt chữa trị vết thương cho My Trang.

    Không biết vì sao, vết thương vốn phải lành lại rất nhanh của My Trang mãi mà chẳng khỏi, gần như cứ cách vài ngày lại tái phát một lần. Ôn Thực Sơ hết sức đau đầu nhưng lại chẳng thể tìm ra nguyên nhân, chỉ đành cố gắng cẩn thận chữa trị.

    My Trang không trách hắn, chỉ nói: “Chắc tại thân thể ta nhạy cảm quá mà thôi, thực làm phiền Ôn đại nhân phải chạy đi chạy lại!”

    My Trang chẳng hề để tâm tới việc tôi thường xuyên được Huyền Lăng triệu tới sủng hạnh, tôi vì ở chung với tỷ ấy nên ban đầu còn có chút thấp thỏm, bất an, nhưng dần dần không còn suy nghĩ nhiều nữa.

    Mùa đông năm nay rất lạnh, tuyết rơi không ngừng, tôi thường xuyên cùng Huyền Lăng nắm tay ngắm cảnh tuyết, mỗi lần kéo dài cả nửa ngày. Khi đó, tâm trạng y hết sức bình yên, tuy không nói gì nhưng bên khóe miệng luôn thấp thoáng nụ cười.

    Có lần, tôi ngồi kiệu đi giữa trời tuyết đến Đông thất ở Nghi Nguyên điện. Huyền Lăng đang cầm bút chuẩn bị vẽ tranh, nhìn thấy tôi thì bèn đặt cây bút vào tay tôi, nói: “Cảnh tuyết nàng nhìn thấy trên đường tới đây chắc hẳn rất đẹp, vẽ cho trẫm xem được không?”

    Vẽ tranh vốn không phải là sở trường của tôi nhưng Huyền Lăng đã nhất quyết như vậy, tôi cũng không tiện thoái thác. Lòng thầm máy động, tôi liền mở tờ giấy Tuyên Thành trắng tinh ra, không hề động bút, cười tủm tỉm nói với y: “Thần thiếp đã vẽ xong rồi, Tứ lang thấy sao?”

    Y cười rộ. “Nàng đúng là vừa nghịch ngợm vừa lười nhác, một nét chưa vẽ mà lại nói đã vẽ xong rồi, há chẳng phải là đùa bỡn trẫm sao?” Tôi mỉm cười tựa đầu vào vai y, đáp: “Bây giờ tuyết lớn mênh mang, mà tuyết vốn màu trắng, thần thiếp chẳng cần động bút, cảnh tuyết cũng đã hiển hiện trên giấy rồi.”

    Y vỗ tay, cười vang.

    Rồi tôi tới Ỷ Mai viên hái hoa mai về, có mai đỏ, mai trắng, mai xanh, muôn màu muôn vẻ, sau đó lại ngắt từng bông hoa mai bỏ vào chiếc bình lưu ly tròn trong suốt ở Đông thất, trong bình có đựng nước tuyết tan chảy, nhìn trong veo không có một hạt bụi nào, mùi hương thanh tân của hoa mai kết hợp với sự trong trẻo của nước mang tới một cảm giác vô cùng dễ chịu. Tôi lại khom người vớt những cánh hoa lên ngắm nhìn, lấy nó làm vui, Huyền Lăng thì đứng một bên lặng lẽ nhìn tôi.

    Ai cũng nói rằng tôi được sủng ái nhất trong hậu cung, nhưng sự sủng ái đó chẳng qua chỉ là những giây phút bình yên và vui vẻ ở bên nhau thế này.

    Từ sau hôm tận mắt nhìn thấy cái chết của Hoa Phi, không rõ tại sao tôi cứ luôn cảm thấy bất an. Có lúc rõ ràng là đang tươi cười trò chuyện với Huyền Lăng, trái tim tôi bỗng nẩy lên, khuôn mặt diễm lệ dính đầy máu tươi của Hoa Phi hiển hiện ngay trước mắt, rùng rợn vô cùng. Sau cơn kinh hãi, tôi bất giác cảm thấy nghi hoặc, liệu sau này kết cục của tôi có giống ả ta không? Suy nghĩ ấy giống như đã mọc rễ trong trái tim tôi, cứ thỉnh thoảng lại hiện lên, làm tâm tư tôi rối bời, phá tan cuộc sống vốn hết sức bình lặng của tôi.

    Hoán Bích sau khi biết chuyện liền cười, nói: “Nương nương thực cả nghĩ quá rồi, Mộ Dung thị hống hách, nương nương thì cẩn thận, lại đang được sủng ái, sao có thể giống ả ta được?”

    Tôi thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Ngày đó chẳng phải ả ta cũng được sủng ái nhất hậu cung sao?”

    Hoán Bích cắn môi suy nghĩ một lát, sau đó nói: “Ả ta thua ở chỗ không có con trai. Nếu nương nương làm được điều này, địa vị hẳn sẽ vững chắc.”

    Tôi hơi cau mày. “Chuyện đâu có dễ dàng như vậy, cần phải có thời gian mới được.”

    Hoán Bích suy nghĩ một chút, cuối cùng ghé tai tôi, nói: “Chi bằng hãy lén đi tìm một số phương thuốc có thể khiến người ta có thai.”

    Tôi đỏ bừng hai má, gí ngón tay vào trán nàng ta một cái nói: “Chỉ biết nói bừa thôi, đợi sau này ta gả muội đi rồi, xem muội còn dám ăn nói linh tinh nữa không?”

    Hoán Bích thẹn thùng xoay người lại. “Nô tỳ chỉ đưa ra chủ ý giúp nương nương thôi, chủ ý không tốt thì nương nương không nghe theo là được, việc gì phải trêu chọc người ta.”

    Tôi cố nhịn cười, kéo tay nàng ta lại, nói: “Cái gì mà trêu chọc, cùng lắm chỉ một, hai năm nữa là muội sẽ không thể ở lại bên ta nữa rồi… Chẳng lẽ muội định đi theo ta cả đời sao?”

    Hoán Bích nghiêng đầu lắng nghe, đột nhiên nghiêm túc nói: “Nô tỳ xin nói thật với nương nương, nô tỳ không muốn lấy chồng, chỉ muốn bầu bạn với nương nương thôi. Nơi này tuy tốt nhưng cũng có chỗ không tốt, nương nương sống một mình ở đây thì khổ sở quá!”

    Tôi lặng im, hồi lâu sau mới gượng cười, nói: “Toàn nói bừa thôi, đợi sau này có tuổi rồi thì chẳng ai thèm cưới muội nữa đâu.”

    Hoán Bích không nói gì thêm, chỉ nhìn lớp diềm giấy hình sáu chữ phúc dán trên cửa sổ, lặng lẽ nói một câu chẳng liên quan: “Tuyết cứ rơi thế này, đến bao giờ mới kết thúc đây?”

    Hậu cung bình lặng, triều chính cũng rành mạch phân minh. Có vết xe đổ của Nhữ Nam Vương, lần này Huyền Lăng khá cẩn thận với các công thần, không ban cho quá nhiều thực quyền, chỉ tặng thêm lụa là, vàng bạc.

    Con gái của các công thần vào cung hầu hạ đều không được tấn phong quá nhanh, cũng không được sủng ái quá mức.

    Tôi cẩn thận để ý, thấy Phúc Quý nhân hiền hòa, Thụy Quý nhân điềm đạm, bốn vị quý nhân ở trong cung không ngừng minh tranh ám đấu với nhau, cũng chẳng còn tâm tư nghĩ đến điều gì khác. Cận Tịch từng hỏi tôi có nên thu lấy một, hai người về phe mình không, tôi mỉm cười, đáp: “Cứ để bọn họ nội đấu với nhau đi, đợi khi nào chỉ còn lại kẻ mạnh, ta sẽ xem xét tình thế mà chọn người để dùng.”

    Cận Tịch hiểu ý: “Gia tộc của Kỳ Quý nhân và gia tộc của nương nương sắp kết thành thông gia, nếu đến lúc vạn bất đắc dĩ, nô tỳ có thể nghĩ cách giúp đỡ nàng ta.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Bây giờ nàng ta như cá gặp nước, chúng ta tạm thời không cần nhúng tay vào làm gì.”

    Trong số những người mới, Thụy Quý nhân Lạc thị dần được ân sủng, so sánh với Kỳ Quý nhân có thể nói là kẻ tám lạng người nửa cân. Một ngày tuyết rơi, tôi đã gặp nàng ta bên hồ Thái Dịch.

    Lúc này bên hồ gió lạnh, chẳng có mấy ai qua lại, tôi vừa từ chỗ Thái hậu thỉnh an quay về, liền chọn đường gần hồ mà về cung. Nhìn thấy nàng ta dắt theo thị nữ lên bờ từ con thuyền nhỏ trên mặt hồ, tôi không khỏi thầm ngạc nhiên, liền cho người sai kiệu dừng lại.

    Tuyết vẫn đang rơi, những bông tuyết nhẹ nhàng đậu xuống mặt hồ, trời đất thoáng đãng mà lạnh lẽo. Nàng ta mặc một chiếc áo choàng gấm trắng ngần, nhìn như cùng tuyết hòa làm một, chỉ để lộ khuôn mặt xinh đẹp.

    Tôi hỏi: “Trời đang đổ tuyết lớn thế này, Thụy muội muội không lạnh sao?”

    Nàng ta hờ hững hành lễ với tôi, nhẹ nhàng đáp: “Trời đổ tuyết lớn mới sạch sẽ.”

    “Sạch sẽ?” Thái độ của nàng ta không cao ngạo, không luồn cúi, cũng không hề tỏ ra nịnh nọt vì tôi là sủng phi, nơi đáy lòng tôi bất giác nảy sinh mấy phần hảo cảm.

    Nàng ta đưa mắt liếc nhìn tôi, khẽ mỉm cười, lại như chẳng phải cười. “Nương nương cảm thấy chốn hậu cung này rất sạch sẽ sao? Chỉ khi bị tuyết lớn che lấp tất cả, nơi đây mới sạch sẽ hơn một chút.”

    Tôi không ngờ nàng ta lại nói vậy, sau một thoáng ngẩn ra bèn cười, nói: “Muội muội cho rằng bị che lấp thì là sạch sẽ sao? Trong lòng nếu không có bụi, dù ở đâu cũng là sạch sẽ, trong lòng nếu phủ đầy bụi, dù ở đâu cũng sẽ bẩn thỉu. Huống chi đã gọi là sạch sẽ thì không cần nhờ thứ gì che lấp cả.”

    Gió thổi chiếc áo choàng của nàng ta tung bay, hé lộ một góc váy màu xanh biếc, nhìn nàng ta lúc này tựa một bông thủy tiên thanh nhã, thuần khiết giữa đầm nước biếc mùa xuân, vừa trong trẻo vừa tỏa hương thơm ngát.

    Cặp mắt hơi lóe sáng, nàng ta khom người hành lễ với tôi. “Tần thiếp thụ giáo. Nhưng nếu rơi vào giữa bụi trần, tần thiếp nguyện ôm cành khô mà chết[1].” Tôi nhìn ánh mắt trong veo không một gợn sóng của nàng ta, bất giác tự thẹn mình thua kém.

    [1] Lời này lấy ý từ một câu thơ trong bài Họa cúc của Trịnh Tư Tiêu, tả về sự cương liệt của hoa cúc.

    Trong ngày “rồng ngẩng đầu” mùng Hai tháng Hai, trời hình như trong xanh hơn một chút. Huyền Lăng ở cung của Hoàng hậu, triệu tôi và Lăng Dung tới trò chuyện cùng.

    Tôi đến muộn, vừa tới cửa đã lập tức có cung nữ hiểu chuyện vén rèm lên để tôi đi vào, một luồng khí ấm từ trong điện phả ra, vô cùng ấm áp và thoải mái. Mấy người Huyền Lăng đều đã ở đó, đang ngồi quanh lò sưởi vừa bóc hạch đào ăn vừa trò chuyện.

    Lăng Dung nhìn thấy tôi tới, liền cười hì hì, nói: “Tỷ tỷ đến muộn rồi, phạt tỷ bóc vỏ hạch đào nhưng không được ăn.”

    Tôi vừa xoa tay vừa cười, nói: “Bên ngoài lạnh quá, ta vốn dùng lò sưởi cầm tay nhưng mới đi được nửa đường nó đã nguội, bèn quay lại đổi cái khác, ai ngờ lại trễ thế này.”

    Huyền Lăng gọi tôi lại, nắm lấy bàn tay tôi, cất giọng thương yêu: “Tay nàng đúng là lạnh quá, mau sưởi ấm một chút rồi hãy ăn hạch đào.”

    Hoàng hậu cười ôn tồn, nói: “Đúng đấy, nếu bụng dạ đang lạnh mà đã ăn đồ ăn, dạ dày sẽ không thoải mái đâu.”

    Tôi vội vàng tạ ơn, sau đó bèn ngồi xuống chiếc ghế nhỏ ở ngay bên dưới Huyền Lăng.

    Sau khi nói chuyện phiếm một hồi, Hoàng hậu cười tủm tỉm, nói với Huyền Lăng: “Hai năm nay trong cung có nhiều biến cố, việc tuyển tú lại bị trì hoãn, hiện giờ các vị trí phi tần trong cung đang thiếu rất nhiều, Hoàng thượng có muốn chọn thêm vài vị muội muội vào để lấp những chỗ trống ấy không?”

    Huyền Lăng chậm rãi nhai một miếng nhân hạch đào, nói: “Hoàng hậu nói ta nghe xem.”

    Hoàng hậu nói vanh vách: “Dựa theo thể chế của hậu cung, Quý, Thục, Hiền, Đức tứ phi mỗi loại có một người, kế đến là Tam phu nhân, Tứ phi, Cửu tần, Ngũ quý tần, những ngôi vị còn lại không có số lượng cố định. Hiện giờ quý tần có hai người, phi cũng có hai người, coi như không có vấn đề gì lớn. Nhưng Cửu tần lại chỉ có một mình Lý Tu dung. Quý, Thục, Hiền, Đức tứ phi tuy còn trống nhưng thân phận cực cao, có thể từ từ lựa chọn, còn ngôi vị phu nhân thì xưa nay vốn không lập nhiều.”

    Huyền Lăng khẽ “ồ” một tiếng, nói: “Những người khác trong Cửu tần thì không có gì, nhưng chiêu nghi thì nhất định phải lập, đó là người đứng đầu trong Cửu tần.”

    Hoàng hậu nói tiếp: “Bên dưới quý tần cũng còn nhiều vị trí trống lắm.”

    Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi, nói: “Vậy xin Hoàng hậu hãy chọn ngày lành tháng tốt tấn phong cho Hoàn Quý tần đi.” Rồi lại hỏi: “Tứ phi giờ mới chỉ có hai người đúng không?”

    Tôi hiểu ra ý tứ của y, vội nói: “Thần thiếp kinh nghiệm còn nông cạn…”

    Hoàng hậu tươi cười rạng rỡ cắt ngang lời tôi: “Đây không phải là vấn đề kinh nghiệm hay không kinh nghiệm, không phải cứ sống trong cung đến già là người nào cũng được phong làm phi đâu. Hoàn Quý tần đức hạnh xuất chúng, tất nhiên không có vấn đề gì.” Nàng ta chậm rãi nói với Huyền Lăng: “Có điều, Quý tần vào cung chưa lâu là một nhẽ, hơn nữa vẫn chưa sinh nở, nếu ngày sau sinh con được phong làm phi thì mới là một niềm vinh dự cực lớn.”

    Hoàng hậu thấy Huyền Lăng có vẻ trầm ngâm, bèn nói thêm: “Chi bằng hãy lập làm Cửu tần trước được không?”

    Huyền Lăng vứt một hạt dẻ vào trong ngọn lửa, mùi thơm lập tức tỏa ra sau một tiếng nổ giòn tan, rồi y vỗ tay nói: “Vậy hãy y theo lời Hoàng hậu, trước tiên phong làm chiêu nghi đã.”

    Tôi vội vàng quỳ xuống tạ ơn, Lăng Dung vui mừng ra mặt nói: “Chúc mừng tỷ tỷ!”

    Huyền Lăng quay sang cười nói với Lăng Dung: “Sao nàng biết mình không có việc mừng?” Rồi lại nhìn Hoàng hậu nói tiếp: “Hãy phong cho An Tần làm phân nghi tòng tứ phẩm đi.” Thoáng trầm ngâm, y bổ sung thêm: “Nhớ để nàng ấy và Hoàn Quý tần được tấn phong cùng ngày, coi như là chung vui.”

    Ngày hôm sau, Hoàng hậu đã chọn xong ngày tấn phong, là ngày Mười hai tháng Hai.

    Tôi đi theo Huyền Lăng tới thư phòng trong Nghi Nguyên điện, lẳng lặng nhìn y xem tấu chương. Mấy khóm trúc mảnh mai bên ngoài bị trúc đè phát ra những tiếng ngâm nga khe khẽ, tiếng tuyết tan rơi xuống tí tách vang lên, mặt đất vì thế mà trở nên có chút ẩm ướt và lầy lội.

    Dường như có một số chân tướng trên thế gian này luôn không được đẹp và khiến người ta không cách nào chấp nhận nổi, chi bằng hãy giấu chúng đi để không ai hay biết.

    Huyền Lăng xem xong một bản tấu chương, đột nhiên lộ vẻ không vui, nói: “Có thần tử tấu rằng Huyền Tế ở trong ngục thường xuyên cất lời oán hận, gọi trẫm là ‘tiểu nhân’, dùng tính mạng vợ con để uy hiếp hắn.”

    Tôi khẽ nở nụ cười, nói: “Kẻ thắng làm vua, kẻ thua làm giặc, hắn từng là thân vương tôn quý, giờ đây trở thành kẻ tù nhân dưới thềm, cất lời oán hận cũng là điều khó tránh.” Sau đó liền ngoảnh lại hỏi: “Hoàng thượng định xử trí thế nào?”

    Trong mắt y lóe lên tia hung quang, tôi lập tức hiểu ngay ý tứ, bèn gật đầu, nói: “Hoàng thượng làm thế cũng chẳng có gì đáng để chê trách, dù sao Huyền Tế cũng là kẻ loạn thần tặc tử, giết đi thực là lẽ thường tình.” Thoáng ngừng một chút liền cất tiếng hỏi: “Nhưng hôm nay Hoàng thượng tức giận như vậy chỉ là vì lời oán hận của Huyền Tế sao?”

    Y đưa mắt nhìn tôi: “Hoàn Hoàn, thứ trẫm thật sự để tâm là miệng lưỡi của thiên hạ.”

    Quả nhiên là vậy. Đôi hàng lông mày hơi dãn ra, tôi dịu dàng nói: “Vậy xin Hoàng thượng hãy ban cho con trai của Huyền Tế là Dư Bạc một tước vị chỉ có hư danh. Huyền Tế oán giận Hoàng thượng dùng tính mạng vợ con hắn để uy hiếp, nhưng Hoàng thượng lại ban ơn đức sâu dày, không để vợ con hắn hết nơi bấu víu, như vậy thiên hạ cũng chẳng thể chê trách được nữa rồi.”

    Huyền Lăng lộ vẻ trầm ngâm. “Dư Bạc còn ít tuổi…” Nhưng rất nhanh sau đó đã cười rộ. “Trẫm thích nó còn ít tuổi như thế.”

    Hôm sau lên triều, Huyền Lăng hạ lệnh cho phép con trai của Huyền Tế là Dư Bạc kế thừa ngôi vị Nhữ Nam vương của phụ thân. Đương nhiên Dư Bạc mới có bảy tuổi, chức Nhữ Nam vương này chẳng qua là hư danh, chỉ có thể dựa vào đó để nhận lấy một ít bổng lộc sống qua ngày mà thôi.

    Cận Tịch tỏ ra khá khó hiểu. “Tại sao nương nương lại…”

    Tôi ngắt lời nàng ta, cất giọng cảm khái nói: “Ngày đó ta mất con, thất sủng, trong cung có nhiều người như thế, nhưng ngoài Kính Phi và My Trang ra thì chỉ có một mình Nhữ Nam Vương phi không thân không thích tới thăm ta. Mặc kệ khi đó nàng ta có mục đích gì, dù sao cũng là tặng than giữa trời tuyết rơi. Bây giờ ta đắc chí còn nàng ta thì lỡ vận, lại nghe nói nàng ta đã trở thành thứ dân, phải nuôi nấng con trai, con gái thực vất vả vô cùng, ta có thể giúp được thì hãy giúp một chút. Ít nhất bây giờ con trai của nàng ta cũng đã có tước vương, cuộc sống sẽ dễ chịu hơn.”

    Cận Tịch lẳng lặng gật đầu, nói: “Thì ra nương nương muốn báo đáp ân tình ngày đó.”

    Tôi khẽ mỉm cười, còn một tâm tư khác thì lại không nói ra. Tao ngộ của Hoa Phi khiến tôi càng thêm thương cảm vì sự bạc bẽo của cái gọi là tình ái trong chốn hậu cung, mà Nhữ Nam Vương tuy kêu căng, hống hách, nhưng vì vợ con lại có thể không tiếc bản thân mình, chịu lấy tính mạng ra bao bọc bọn họ. Tuy rất bất mãn với hắn nhưng tôi lại không thể không sinh lòng cảm phục về điều này.

    Đêm trước ngày sắc phong, tôi nghỉ lại Đông thất ở Nghi Nguyên điện.

    Ánh trăng bàng bạc, lạnh lẽo từ ngoài cửa sổ chiếu vào, như sương như tuyết, nhưng được ánh nến đỏ mịt mờ trong điện phủ lên, bất giác sinh ra mấy tia ấm áp.

    Tôi tựa mình trong lòng Huyền Lăng, long diên hương trong lò tỏa ra từng làn khói trắng vương vất, tựa như những sợi tơ nhỏ, chậm rãi lan tỏa khắp bốn phía.

    Huyền Lăng khoác hờ một chiếc áo ngủ trên người, trong điện bây giờ ấm áp như mùa xuân, cũng không lạnh lắm. Y ôm tôi vào lòng, ôn tồn nói: “Đường Lê cung đã được sửa xong, giờ Thân một khắc[2] ngày mai, lễ sắc phong của nàng hoàn tất, sau đó có thể quay về ở tại Đường Lê cung như xưa rồi.”

    [2] Khoảng ba giờ ba mươi phút chiều.

    Tôi khẽ lướt ngón tay trên cằm y, cười nói: “Thực đã ấm ức cho Kỳ Quý nhân rồi, phải dọn qua chỗ Hân tỷ tỷ, Hoàng thượng muốn đến thăm muội ấy cũng không tiện.”

    Y cười rộ. “Có gì mà tiện với không tiện, điều quan trọng là trẫm có muốn tới thăm nàng ta hay không mà thôi!” Y ngừng cười, đặt tay lên bờ vai tôi, nói: “Trẫm đã nghĩ rồi, Đường Lê cung cứ nên để một mình nàng ở là tốt nhất. Có lần trẫm tới thăm nàng, Kỳ Quý nhân cũng ở bên cạnh, thực không hay chút nào.”Tôi mỉm cười điềm đạm. “Tứ lang vốn vì thích Kỳ Quý nhân nên mới để muội ấy tới ở với thần thiếp, sao bây giờ lại không để muội ấy quay lại như vậy, chỉ sợ sẽ khiến muội ấy để bụng đấy!”

    Nét mặt mang theo mấy phần chân thành, Huyền Lăng nói rành rọt từng từ: “Sau này Đường Lê cung chỉ dành cho một mình nàng ở thôi, mỗi dịp xuân về trẫm sẽ uống rượu với nàng trong vườn hoa hải đường, lại nhìn nàng múa điệu Kinh Hồng giữa những bông hoa lê rơi đầy đất, mùa hè thì cùng nàng ngắm hoa sen ở Thái Bình hành cung.”

    Tôi thầm xúc động, ánh mắt chứa chan tình, mỉm cười tiếp lời y: “Mùa thu, Hoàn Hoàn sẽ cùng Tứ lang ủ rượu quế, mùa đông thì cùng chàng ngắm những bông tuyết bay đầy trời.”

    Y dường như có chút thổn thức, cất giọng chân thành: “Đúng vậy, trẫm sẽ ở bên nàng và nàng cũng sẽ ở bên trẫm.”

    Một nỗi niềm mừng vui và cảm động khó tả bất giác trào dâng, tôi vùi đầu vào lòng y, cảm thấy ngọt ngào vô hạn.

    Tôi khẽ nói: “Đúng thế, Hoàn Hoàn sẽ mãi mãi ở bên Tứ lang.”

    Y “ừm” một tiếng, hình như đang lẩm bẩm một mình: “Hoàn Quý tần? Hoàn Hoàn, Hoàn Hoàn.”

    Tôi định ngẩng đầu lên nhưng cánh tay y rất mạnh mẽ, ghì chặt đầu tôi vào lồng ngực rắn chắc. Không khí có chút ngột ngạt, trong khoang mũi tôi toàn là mùi của cơ thể y.

    Hoàn Hoàn? Trước đây, hình như y cũng từng gọi tôi như vậy. Tôi cảm thấy hơi mỏi mệt, liền ngáp dài một cái, từ từ chìm vào giấc ngủ.

    Đêm đã về khuya, tôi chợp mắt rồi mà vẫn mơ mơ màng màng, loáng thoáng nghe thấy phía đằng xa có tiếng đồng hồ nước tí tách không ngớt vang lên, tiếng sau dài hơn tiếng trước. Tuy xuân đã về nhưng tuyết vẫn chưa ngừng rơi, đêm đen sâu thẳm thực dài biết mấy. Trong phòng vì có lò sưởi và chậu than nên ấm áp vô cùng, duy có tiếng gió rít gào bên ngoài cửa sổ là nhắc người ta rằng sự ấm áp ấy không hề chân thực.

    Tôi cứ nửa tỉnh nửa mê, vòng ôm rất chặt của Huyền Lăng khiến tôi nóng tới rỉ mồ hôi, định giãy giụa cho lỏng ra một chút nhưng rốt cuộc vẫn không đành lòng, thế là cứ im lặng chịu đựng sự nhớp nháp.

    Ngày mai là ngày tôi được tấn phong, có điều tôi chẳng cảm thấy mừng vui chút nào, tấn phong hay không không quan trọng, điều quan trọng là trong lòng người kề bên tôi đây có một chút chân tình với tôi.

    Huyền Lăng đang chìm trong giấc mộng, xoay người khẽ cựa quậy, cánh tay vẫn ôm chặt lấy thân thể tôi, khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Hoàn Hoàn.”

    Dường như y đang gọi tôi, tôi bất giác tỉnh táo hơn nhiều, ôm lấy cánh tay y, cũng khẽ gọi: “Tứ lang.”

    Y vẫn đang ngủ say, bàn tay đưa tới bên cổ tôi nhẹ nhàng mơn trớn, những đường chỉ tay lõm xuống rõ ràng, giọng nói dạt dào tình cảm như biển rộng: “Ta đi tìm nàng khắp nơi.” Trong giấc mơ, chỉ khi ở trong giấc mơ, y mới gọi tôi là “Hoàn Hoàn” như thế, một ting “Hoàn Hoàn” chan chứa biết bao tình cảm chân thành. Sống mũi tôi bất giác cay sè, rồi cảm xúc ấy dần lan tỏa khắp cơ thể, trái tim tôi như bị bao phủ bởi sự dịu dàng.

    Y là vua một nước, y thực sự đối xử với tôi như vậy, đối xử với tôi bằng sự chân thành của y sao? Trong giấc mơ mà vẫn không ngừng nhớ đến tôi. Nước mắt từng giọt, từng giọt tuôn rơi, lặng lẽ ngấm vào trong chiếc gối lụa mềm, cảm giác ấm nóng và ẩm ướt ấy dán sát lên bờ má, sau đó thì lạnh dần. Chính sự lạnh lẽo ấy đã nhắc nhở tôi rằng tôi không hề nghe nhầm.

    Trên người y có mùi long diên hương sâu thẳm, từng chút từng chút, tràn ra ngoài mang theo sự khắc cốt ghi tâm. Kề sát bên, tôi ngửi thấy trên huyệt thái dương của y còn có mùi dầu bạc hà lạnh đến thấu xương, lạnh đến đắng chát, từng chút từng chút tràn vào trong mũi, khiến trái tim tôi bỗng như bị ngâm giữa lòng nước lạnh giá của mùa xuân. Tôi đưa tay ôm chặt lấy cổ y, khẽ cất tiếng lầm bầm: “Tứ lang, thiếp sẽ mãi ở đây.” Không biết y có nghe thấy không nhưng cánh tay lại vô thức ôm tôi chặt hơn. Giữa căn phòng ấm áp như mùa xuân, tôi nhắm mắt lại, chìm vào giấc ngủ trong sự mừng vui ngập lòng.

    Khi tôi thức giấc, Lăng Dung đã chờ sẵn bên ngoài Nghi Nguyên điện, giờ hãy còn sớm, nàng ta khẽ mỉm cười, nói: “Muội đặc biệt tới đây chờ tỷ tỷ cùng đi thỉnh an Hoàng hậu nương nương đấy!”

    Huyền Lăng đứng sau lưng tôi, vừa rửa ráy xong xuôi, lúc này vẫn còn hơi mơ màng buồn ngủ, nói: “Trẫm lên triều đây!”

    Tôi nhún gối hành lễ. “Thần thiếp cũng phải tới cung của Hoàng hậu thỉnh an, cung tiễn Hoàng thượng.”

    Y đưa mắt nhìn lướt qua Lăng Dung, sau đó lại chăm chú nhìn tôi, khẽ nói: “Hoàn Hoàn, đêm nay nàng lại tới đây nhé!”

    Tôi đỏ bừng hai má, khẽ gật đầu, vội vàng thúc giục: “Hoàng thượng mau đi đi, buổi triều sớm không thể chậm trễ được đâu.”

    Tôi ngoảnh lại, thấy Lăng Dung nở một nụ cười sâu xa thoáng mang theo chút nghi hoặc, bất giác lại càng bối rối.

    Vì thời gian còn sớm, vẫn chưa có các phi tần khác tới thỉnh an, chúng tôi phải đợi một lúc rồi Hoàng hậu mới ra ngoài, nói: “Hai người đến sớm thật.”

    Tôi và Lăng Dung tươi cười cung kính nói: “Bọn thần thiếp tới đây để thỉnh an và tạ ơn Hoàng hậu.”

    Hoàng hậu vui vẻ, hòa nhã nói: “Tạ ơn cái gì, các ngươi được tấn phong ấy là nhờ bản thân các ngươi phẩm hạnh đoan chính, lại được Hoàng thượng sủng ái mà thôi.”

    Lăng Dung dùng khăn tay che miệng khẽ cười, nói: “Nếu xét tới sự sủng ái, bây giờ ai mà so được với Hoàn tỷ tỷ. Sáng nay thần thiếp tới Nghi Nguyên điện chờ tỷ tỷ cùng đi thỉnh an, ai ngờ lại là đường đột.”

    Tôi cả thẹn, vội ngăn nàng ta lại: “Lăng Dung…”

    Nàng ta lại cười, nói với tôi: “Tỷ tỷ xấu hổ gì chứ, Hoàng hậu yêu quý chúng ta nhất mà.” Thấy Hoàng hậu mỉm cười, nàng ta lại nói tiếp: “Sáng sớm hôm nay, thần thiếp nghe Hoàng thượng gọi tỷ tỷ là ‘Hoàn Hoàn’ đấy!”

    Tôi “úi chao” một tiếng, hai bờ má bất giác nóng bừng, vội nói: “Hoàng hậu nương nương chớ nghe An muội muội nói năng bừa bãi.”

    Hoàng hậu dường như ngây ra trong khoảnh khắc, bên khóe miệng dần xuất hiện một nụ cười lạnh lẽo thoáng nét bi thương. Nụ cười đó càng nồng đậm, ý giễu cợt càng thể hiện rõ ràng. “Hoàn Hoàn?” Nàng ta nhẩm lại lần nữa: “Hoàn Hoàn.” Giọng nói dường như mang theo sự lạnh lẽo đến thấu xương, không hề chân thực, có lẽ chỉ là ảo giác của tôi mà thôi.

    Hoàng hậu vốn không bao giờ nói chuyện bằng giọng điệu như thế, nàng ta luôn khoan thai, nho nhã, đoan trang, hiền thục, đúng tư thế của một bậc mẫu nghi thiên hạ. Và chỉ sau một khoảnh khắc ngẩn ngơ, Hoàng hậu đã khôi phục dáng vẻ thường ngày, chậm rãi mỉm cười cất tiếng: “Hoàng thượng gọi ngươi như vậy nhất định là thực sự sủng ái ngươi rồi!”

    Lăng Dung thấy hai má tôi đỏ bừng, vội tươi cười xin lỗi: “Muội chẳng qua nhất thời mau miệng, tỷ tỷ đừng trách muội đấy nhé!”

    Trong lòng tôi thoáng xuất hiện một tia nghi ngờ, Lăng Dung xưa nay chưa bao giờ là hạng người mau mồm mau miệng như thế.

    Tôi đang định trách cứ vài câu, Lăng Dung đã lộ vẻ lo lắng và tự trách, nói: “Sau này muội không dám nữa đâu.”

    Hoàng hậu đứng một bên, cười nói: “Đều là tỷ muội với nhau trong cung, nói đùa vài câu thì có là gì.” Thoáng dừng một chút, lại nói tiếp: “Lễ tấn phong cho An Tần thì đơn giản không có gì, còn Quý tần ngươi hãy về cung đợi đi, lễ phục dùng khi sắc phong còn chưa ổn lắm, đợi sau giờ Ngọ, bản cung sẽ sai người đưa tới cho ngươi.”

    Tôi kính cẩn vâng lời, sau đó liền cáo từ rời đi.

    Sau buổi trưa, trời ấm hơn một chút, tôi và My Trang ngồi chụm đầu, kiểm tra vết sẹo lưu lại trên cánh tay tỷ ấy sau vụ bỏng lần trước. My Trang hờ hững nói: “Vết sẹo to quá, đúng là khó coi chết đi được!” Nói rồi liền định buông tay áo xuống.

    Tôi vội nói: “Rốt cuộc đã thành sẹo rồi, khó coi một chút cũng không sao, quãng thời gian trước cứ mưng mủ suốt, làm muội sợ chết đi được.” Sau đó lại khẽ cười. “Lăng Dung từng tặng muội thứ này tốt lắm, dùng để khử sẹo hữu hiệu vô cùng.” Tôi chỉ vào má mình, nói tiếp: “Vết thương do bị mèo cào trước đây của muội bây giờ đã khỏi hẳn rồi này.”

    Tỷ ấy tỉ mỉ nhìn kĩ, lát sau liền cười, nói: “Đúng là đã khỏi rồi. Có điều vết thương trên mặt muội dù sao cũng nhỏ, còn vết sẹo của ta to thế này, e là không ăn thua đâu.”

    Tôi nói: “Chỗ muội giờ hãy còn một ít, tỷ cứ dùng tạm đã. Nếu có tác dụng, đợi sau lễ sắc phong của Lăng Dung, muội sẽ bảo muội ấy điều chế thêm một ít rồi đưa đến đây, tin rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.” Sau đó liền nói với Lưu Chu: “Thư Ngân Giao mà lúc trước An tiểu chủ đưa tặng còn không, mau đi tìm tới đây cho ta.”

    Lưu Chu cười hì hì, nói: “Nếu là thứ khác thì nô tỳ có lẽ còn không biết, sợ là đã bị đốt cháy trong vụ hỏa hoạn lần trước rồi cũng chưa biết chừng, nhưng Thư Ngân Giao là vật quý hiếm, nô tỳ lại thấy chiếc bình đó đẹp nên đã cất rất cẩn thận, giờ sẽ mang tới ngay.”

    My Trang khẽ nở nụ cười. Tôi nói: “Tỷ xem có khéo không kìa, đến ông trời cũng thành tâm không muốn để vết sẹo này làm hỏng vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của tỷ.” My Trang làm bộ hờn giận cốc đầu tôi một cái, sau đó không kìm được bật cười.

    Lưu Chu rất nhanh đã quay trở lại, nói: “Ôn thái y tới rồi, muốn thăm mạch cho Thẩm Tiệp dư.”

    My Trang mỉm cười, nói: “Mau mời vào đây.” Rồi lại quay sang nói với tôi: “Muội cứ luôn chê y rắc rối, đến mạch cũng không cho người ta xem, chỉ bảo y đến xem cho ta. Bây giờ thì hay rồi, y ngày nào cũng đến làm phiền ta.”

    Tôi thè lưỡi, làm bộ không để ý đến. Bên trong chiếc bình tròn tráng men đựng Thư Ngân Giao kia là một thứ thuốc cao trong suốt, mát rượi và tỏa mùi thơm dịu nhẹ, My Trang cầm lên ngửi thử rồi nói: “Thơm quá, vừa ngửi đã biết ngay là đồ tốt.”

    Đương lúc trò chuyện thì Ôn Thực Sơ tiến vào, hắn ngồi xuống chỗ đối diện, bắt mạch cho My Trang, thấy tôi cầm bình Thư Ngân Giao trong tay, như vô tình mà hữu ý liếc qua mấy bận, rồi nói: “Xin hỏi nương nương, đây là thứ gì vậy?”

    Tôi đưa cho hắn, nói: “Là Thư Ngân Giao dùng để xóa sẹo.”

    “Ồ?” Hắn dường như khá có hứng thú, liền đón lấy xem kỹ càng một lượt, sau đó lại dùng ngón tay út khều một chút, bôi ra mu bàn tay và ngửi thử. Tôi hồ nghi hỏi: “Có gì không ổn sao? Bản cung đã dùng quá nửa bình, không cảm thấy có chỗ nào không thoải mái cả.”

    Sắc mặt Ôn Thực Sơ có vẻ hơi cổ quái nhưng lại không nói ra được lý do gì, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Vi thần nhất thời còn chưa thể xác định, không biết nương nương có thể cho thần mang về nghiên cứu kĩ càng không?”

    Tôi biết hắn xưa nay luôn thận trọng, lại rất để tâm tới những việc có liên quan đến tôi, thế là lập tức gật đầu đồng ý. “Được, xin thái y hãy xem cẩn thận giúp bản cung.”

    My Trang thấy tôi đột nhiên tỏ ra nghiêm túc như vậy, liền ngạc nhiên hỏi: “Sao thế?”

    Tôi thầm thắc thỏm, một tia bất an và sợ hãi trào dâng, không hiểu sao cứ luôn cảm thấy có chỗ nào đó không đúng lắm.

    My Trang khẽ nắm lấy bàn tay tôi, hỏi với giọng quan tâm: “Muội sao thế? Chẳng lẽ thân thể không thoải mái? Lát nữa phải tới Thái miếu tham dự lễ sắc phong rồi đấy!”

    Tôi cố gắng trấn định tâm thần, cười nói: “Muội không sao.”

    Thế nhưng tôi còn chưa kịp nghĩ nhiều, thời gian cử hành lễ sắc phong đã tới. Sau khi làm xong mọi lễ nghi trong Thái miếu, dựa theo quy định, tôi phải tới cung của Hoàng hậu nghe Hoàng hậu dạy bảo, sau đó thì tạ ơn Hoàng thượng và Hoàng hậu.

    Mới đi được nửa đường, Lưu Chu chợt kêu lên “úi chao” một tiếng, nói: “Nương nương, thế này…”

    Tôi cúi xuống nhìn, thấy không biết từ bao giờ, trên tà váy của bộ lễ phục mà tôi mặc đã xuất hiện mấy vết rách dài cỡ một tấc. Tôi thầm cảm thấy sợ hãi, lễ phục dùng khi sắc phong chẳng khác gì đồ ngự ban, sao có thể để bị hư hại được?

    Đợi lát nữa đến trước mặt Hoàng thượng và Hoàng hậu, nếu bị phát hiện, há chẳng phải là tội lớn? Tổng quản phủ Nội vụ là Khương Trung Mẫn lúc này cũng đi theo bên cạnh, mà lễ phục vốn do phủ Nội vụ của y cấp, xảy ra vấn đề gì y cũng không thoát khỏi can hệ, bất giác lo lắng đến xanh mặt.

    Sau một thoáng kinh sợ, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại, nói: “Có thể tìm người đến vá lại không?”

    Khương Trung Mẫn đáp: “Lễ phục dùng khi sắc phong là do mấy người thợ giỏi dùng chỉ vàng chỉ bạc làm ra, lượng chỉ chỉ đủ dùng cho một bộ trang phục này thôi, nếu muốn tìm thêm e là phải mở cửa nhà kho, mà như thế thì rầm rộ quá!”

    Tôi lắc đầu, nói: “Không được!”

    Thời gian trôi qua từng chút, Hoán Bích nói: “Không thể chậm trễ thêm nữa, nếu đễ lỡ thời gian, chỉ e nương nương sẽ bị Hoàng thượng và Hoàng hậu trách phạt thêm đấy.”

    Khương Trung Mẫn lo lắng chạy qua chạy lại, mồ hôi rỉ đầy đầu, đột nhiên vỗ đùi đánh bốp một cái, mừng rỡ nói: “Hai ngày trước, cung của Hoàng hậu có mang tới một chiếc áo dài nhờ vá giúp, thoạt nhìn thì khá có kiểu cách của một bộ lễ phục, tuy không giống lắm với bộ đồ trên người nương nương bây giờ nhưng nếu chỉ dùng tạm thời thì hẳn là không vấn đề gì.”

    Tôi thoáng do dự. “Liệu có ổn không?”

    Khương Trung Mẫn nói: “Chiếc áo đó trông hơi cũ, chắc đã may từ mấy năm trước rồi, chỉ e Hoàng hậu nương nương trước đây đã từng mặc qua, do đó cũng không nôn nóng đến đòi, sau khi vá xong đã để ở chỗ nô tài được hai, ba ngày rồi, chắc không có vấn đề gì lớn.” Y thấp giọng nói tiếp: “Hiện giờ chỉ có cách dùng tạm chiếc áo đó thôi.”

    Lưu Chu vốn hấp tấp, liền thúc giục: “Nếu có thể dùng được, sao còn không mau đi lấy?”

    Tôi vội ngăn lại: “Không được, xiêm y của Hoàng hậu ta sao có thể tùy tiện mặc chứ, như thế há chẳng mắc tội vô lễ?”

    Cận Tịch là người có nhiều kinh nghiệm nhất ở đây, thấy sự tình khẩn cấp liền cau mày suy nghĩ một chút, sau đó nói: “Nếu là lễ phục của Hoàng hậu thì nhất quyết không được mặc, nhưng nếu chỉ là đồ thường thì tạm dùng chắc cũng không có vấn đề gì lớn, chỉ là nương nương cần phải thỉnh tội với Hoàng hậu. Dù sao trước đây khi tấn phong quý tần, nương nương cũng từng vì thời gian quá gấp mà phải dùng áo váy của Kính Phi nương nương, coi như đã có tiền lệ rồi.”

    Khương Trung Mẫn suy nghĩ một chút rồi nói: “Đó quả đúng là đồ thường, hơn nữa e rằng còn là xiêm y của Hoàng hậu nương nương khi còn làm phi tử, được may bằng gấm Khổng tước, bên trên thêu hình địch phượng[3] chứ không phải hình phượng hoàng.”

    [3] Một giống chim mà theo quan niệm của người Trung Quốc thì không cao quý bằng phượng hoàng.

    Cận Tịch thở phào một hơi. “Vậy thì ổn rồi!”

    Khương Trung Mẫn không dám sai người khác, đích thân vội vã chạy đi, rất nhanh đã quay trở về phục mệnh.

    Thứ y mang đến quảà một chiếc áo rất đẹp, dài chạm đất, may bằng gấm Khổng tước và có những đường nét hoa văn rực rỡ, bên trên còn có hình thêu hoa lạc tiên và địch phượng, trong sự hoa lệ lại có mấy phần thanh nhã, mà nhìn kích thước cũng khá hợp với cơ thể tôi.

    Lưu Chu tấm tắc nói: “Đúng là xiêm y của Hoàng hậu có khác, cũ mấy thì vẫn là đồ tốt.”

    Hoán Bích vội vàng thay áo cho tôi, nói: “Nương nương nhanh lên một chút, kẻo lại khiến Hoàng thượng và Hoàng hậu sốt ruột.”

    Lúc này tôi cũng không để ý được nhiều, vội thay xiêm y rồi ngồi vào trong chiếc xe Địch phượng ngọc lộ. Rèm xe buông xuống, tôi nghe thấy Cận Tịch cất tiếng thở dài vẻ đầy nghi hoặc từ phía sau: “Sao lại quen mắt thế nhỉ?”

    Tôi không có thời gian rảnh để suy nghĩ về lời của nàng ta, trong lòng thầm mong mình đừng tới trễ quá.

    Thế nhưng cũng có một tia nghi hoặc trào dâng trong tôi, dường như có chỗ nào đó có vấn đề rất lớn, chỉ là bây giờ tôi không còn nhiều thời gian để suy đoán nữa thôi.
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 19: Nửa đêm dạ người sinh oán hận
    Chiêu Dương điện sâu thẳm mà rộng lớn, tôi đứng bên trong đã được nửa tuần hương nhưng vẫn chẳng thấy Huyền Lăng và Hoàng hậu ra ngoài, cũng chẳng có chút động tĩnh nào.

    Đương lúc nghi hoặc, Tiễn Thu cười tủm tỉm đi ra, cung kính khom người hành lễ với tôi. “Làm phiềm Chiêu nghi nương nương phải đợi lâu, vừa rồi bệnh đau đầu của Hoàng hậu nương nương tái phát, hết sức khó chịu, lúc này Hoàng thượng đang ở trong bón thuốc cho nương nương, đợi lát nữa là có thể ra ngoài, xin Chiêu nghi hãy chịu khó đợi thêm chút nữa.”

    Tôi tươi cười, hòa nhã nói: “Đã làm phiền cô nương chuyển lời rồi, không biết bây giờ Hoàng hậu nương nương đã đỡ hơn chưa?”

    Tiễn Thu cười, đáp: “Đó là bệnh cũ của Hoàng hậu nương nương, uống chút thuốc vào là khỏi thôi.”

    Tôi vội nói: “Vậy thì tốt quá, chỉ mong nương nương phượng thể an khang.”

    Tiễn Thu vốn cũng là người khéo ăn khéo nói, lập tức tươi cười. “Nô tỳ đã nói rồi mà, chắc chắn Chiêu nghi nương nương rất quan tâm đến Hoàng hậu nương nương.”

    Trong điện vô cùng tịch mịch, ngoài các cung nữ, thái giám đang chờ bên ngoài, chỉ còn có mình tôi.

    Đó là một thứ cảm giác rất bối rối, Chiêu Dương điện vốn chỉ thuộc về Hoàng hậu, vậy mà lúc này tôi lại đứng một mình ở đây, trong sự tịch mịch đến lạ thường.

    Ngoài cửa sổ ngợp đầy tuyết trắng, dưới một mảng màu thuần khiết như vậy, Tử Áo Thành càng có vẻ rộng rãi và tịch mịch lạ thường. Cung của Hoàng hậu xưa nay vốn không đốt hương, hôm nay cũng dùng trầm thủy hương chỉ có trong dịp đại lễ, mùi thơm vừa đắng vừa ngọt lan tỏa khắp điện, khiến người ta cảm nhận được sự tĩnh lặng và trang trọng tột cùng.

    Dường như có tiếng bước chân vang lên, rồi một người thất thanh gọi tôi: “Hoàn Hoàn.” Tôi ngoảnh lại, thấy là Huyền Lăng. Trong điện đa phần treo những bức rèm màu xanh và đỏ, do đó chiếc áo màu vàng tươi trên người y lại càng bắt mắt hơn.

    “Hoàng thượng…” Tôi khẽ cất tiếng gọi y.

    Ánh sáng trong điện mờ ảo, từng làn khói trắng nghi ngút tỏa ra từ chiếc lò đốt trầm thủy hương, thêm vào đó lại đang ở xa nhau nên tôi không thể nhìn rõ thần sắc của y lúc này. Chỉ nghe y mơ hồ cất tiếng: “Sao nàng không gọi ta là Tứ lang nữa?”

    Tứ lang? Tôi có chút thẹn thùng, còn cảm thấy ngạc nhiên, trong cung của Hoàng hậu tuy không có người nào nhưng gọi như thế hình như không được hay lắm. Thế nhưng y lại truy hỏi tiếp, hơn nữa trong lời truy hỏi còn một mực tự xưng mình là “ta”.

    Đây là lần thứ hai tôi nghe thấy y tự xưng bản thân như vậy.

    Rồi tôi khẽ trả lời: “Tứ lang, thần thiếp ở đây.”

    Y khẽ “ồ” một tiếng, bước lên phía trước một bước, hơi do dự: “Hoàn Hoàn?”

    Trái tim tôi đột nhiên đập thình thịch dữ dội, miệng vẫn dịu dàng đáp lại y một tiếng: “Là thiếp.”

    Y chạy về phía tôi, trong tiếng bước chân dồn dập toát ra một nỗi mừng vui khó tả hết bằng lời. Tám cây trâm ngọc dùng trong lễ sắc phong chiêu nghi cài đầy trên đầu tôi, những dải tua rủ xuống khiến khuôn mặt tôi bị che đi quá nửa, còn hết sức nặng nề. Y ôm chặt tôi vào lòng, dường như vừa tìm lại được một vật gì vô cùng quý báu sau nhiều năm đánh mất, khẽ gọi: “Hoàn Hoàn, nàng rốt cuộc đã trở về rồi…”

    Giọng nói của y khàn khàn và chứa chan tình cảm nhưng trái tim tôi đột nhiên trầm hẳn xuống, một luồng khí lạnh xộc thẳng lên từ nơi gót chân, người mà y đang ôm liệu có phải là tôi? Hoàn Hoàn? Cái tên này lẽ nào thuộc về một người khác?

    Tôi không thể động đậy. Y ôm rất chặt, chặt đến mức khiến tôi cơ hồ không thể thở được, nơi xương sườn truyền đến cảm giác nhói đau. Đồng thời, sự nghi hoặc kia khiến tôi cảm thấy hết sức bất an, thế là bèn nín thở, nói rành rọt từng từ: “Thần thiếp Chân Hoàn, tham kiến Hoàng thượng.”

    Y dường như còn chưa nghe rõ, rồi thân thể bỗng trở nên cứng đờ, vòng tay dần buông lỏng. Y chăm chú nhìn tôi, ánh mắt có chút cổ quái, sau đó liền cất giọng hờ hững: “Là nàng à?”

    Tôi kinh hãi đến nỗi thiếu chút nữa cắn phải lưỡi. Vẻ mặt của y lúc này khiến tôi rùng mình, như thể bị một chậu nước lạnh giội xuống từ trên đỉnh đầu, ngay đến xương tủy cũng ngợp trong cảm giác giá lạnh. Tôi cố hết sức giữ bình tĩnh, quỳ xuống, khẽ nói: “Thần thiếp tham kiến Hoàng thượng.”

    Y liếc mắt nhìn về phía xa rồi rất nhanh đã trở lại trên người tôi, quan sát bộ xiêm y tôi đang mặc một hồi. Đột nhiên, y đưa tay kéo tôi dậy, trong mắt bừng lên một tia la giận, giọng nói mang theo ý chất vấn: “Chiếc áo này là từ đâu ra?”

    Tôi thầm sợ hãi, đang định giải thích thì bàn tay đang nắm lấy cánh tay tôi của y càng lúc càng dùng sức hơn, khiến tôi đau đến nỗi mồ hôi lạnh tuôn ra đầm đìa, không nói được thành lời. Tôi cố gắng nín thở rồi mới thốt ra được một câu: “Thần thiếp…” Còn chưa nói xong, y đã đẩy tay tôi ra, khiến tôi ngã nhào xuống đất, lại “hừ” lạnh một tiếng.

    Phía bên trong, Hoàng hậu nghe thấy động tĩnh liền vội bám tay Tiễn Thu ra ngoài, nhìn thấy tình cảnh này thì không kìm được “úi chao” một tiếng, ngã về phía Tiễn Thu.

    Huyền Lăng cả kinh, không để ý đến tôi nữa, vội chạy tới đỡ Hoàng hậu ngồi xuống. “Hoàng hậu sao vậy?”

    Hoàng hậu còn chưa ngất đi, chỉ đưa tay day trán, gắng gượng nói: “Thần thiếp hơi đau đầu.”

    Tiễn Thu vội rót một chén trà, nhưng Hoàng hậu lại không uống, chỉ có nghiêng bốn phía tìm kiếm ai đó, hỏi: “Hội Xuân đâu?”

    Tiễn Thu hiểu ý, vội gọi Hội Xuân vào. Vừa nhìn thấy Hội Xuân, sắc mặt Hoàng hậu đã tái nhợt, một tay chỉ vào tôi, một tay vỗ mạnh xuống tay vịn của chiếc ghế, quát hỏi: “Ngươi mau nhìn xem, chuyện này là thế nào?”

    Hội Xuân đưa mắt nhìn về phía tôi, lập tức sợ đến tái mặt, vội quỳ xuống, khóc lóc nói: “Mấy ngày trước, nương nương kiểm tra đồ đạc cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu, phát hiện chiếc áo Nghê thường này bị rơi mất hai chiếc cúc, chỉ cũng hơi sờn, liền sai nô tỳ mang đến phủ Nội vụ bảo bọn họ sửa lại. Nô tỳ vốn định tìm lúc nào rảnh sẽ tới đó lấy về, ai ng hai ngày nay nhiều việc quá nên quên mất, không biết vì sao lại xuất hiện trên người Chiêu nghi nương nương.” Nàng ta sợ đến quên cả khóc, ra sức đập đầu, nói: “Xin Hoàng thượng, Hoàng hậu thứ tội!”

    Đầu óc tôi như nổ uỳnh một tiếng, trở nên trắng bệch. Mặc nhầm áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu, phải làm sao đây?

    Hoàng hậu nghe thế thì bừng bừng nổi giận, thở hồng hộc nói: “Hồ đồ! Bản cung đã dặn đi dặn lại các ngươi phải chú ý bảo quản đồ đạc của tiên Hoàng hậu cho tốt, các ngươi lẽ nào lại coi những lời đó như gió thoảng bên tai? Những thứ khác thì thôi, nhưng…”

    Ánh mắt Huyền Lăng toát lên vẻ đờ đẫn. “Đây là chiếc áo mà nàng ấy mặc trong lần đầu tiên gặp trẫm.”

    Trong mắt Hoàng hậu như có một ngọn lửa bùng lên, nhìn Huyền Lăng chăm chú. “Hoàng thượng chắc vẫn còn nhớ, khi đó, tỷ tỷ vào cung thăm thần thiếp.”

    Huyền Lăng khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Tất nhiên ta không thể nào quên.”

    Bọn họ thản nhiên nói chuyện với nhau, bỏ mặc tôi ở một bên, tựa như đã hoàn toàn bị quên lãng, chỉ biết lẳng lặng nhìn bọn họ trong cô độc. Hoàn Hoàn? Tôi thầm cười lạnh, cảm thấy rất đỗi bi ai, Hoàn Hoàn, thì ra là một người khác!

    Y rất nhanh đã lại nhìn qua phía tôi, nói với giọng lạnh lùng mà xa lạ: “Cởi ra!”

    Tôi nhất thời có chút lúng túng, nếu cởi áo ngoài ra, trên người tôi chỉ còn lại chiếc áo lót, tuyệt đối không hợp với lễ nghi. Thế nhưng tôi vẫn cởi ra rồi quỳ xuống, dâng lên bằng hai tay, cung kính đưa: “Thần thiếp sơ ý, mặc nhầm áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu.”

    Hoàng hậu đưa mắt liếc nhìn Huyền Lăng, dè dặt nói: “Chiêu nghi xưa nay luôn cẩn thận, ắt không cố ý làm như thế, e là bên trong có duyên cớ gì chăng?” Rồi quay sang nói với tôi: “Ngươi tự mình nói đi.”

    Tôi bình tĩnh lắc đầu, đáp: “Lúc tới cung của Hoàng hậu, thần thiếp phát hiện lễ phục bị rách, bất đắc dĩ mới phải mượn tạm chiếc áo này nhưng không hề biết lai lịch của nó.” Khóe môi dần xuất hiện một nét cười thê lương, lồng ngực tôi phập phồng lên xuống. “Nếu không phải như vậy…” Tôi chăm chú nhìn Huyền Lăng nhưng lại không nói tiếp, mà quay sang nói với Hoàng hậu: “Đây là lỗi của thần thiếp, thần thiếp tình nguyện nhận phạt.”

    Tự nơi đáy lòng, tôi sao có thể chờ mong trở thành một con người khác trong mắt y? Thôi vậy, thôi vậy!

    Huyền Lăng nhìn tôi bằng ánh mắt phức tạp mà xa xăm. Tôi ngoảnh đầu đi, cố kìm nén không để mình rơi nước mắt.

    Sau một thoáng tĩnh lặng đầy băng giá, Hoàng hậu do dự nói: “Chiêu nghi…”

    Huyền Lăng mặt mày hờ hững, cất tiếng: “Chiêu nghi? Tuy đã tiến hành lễ sắc phong nhưng còn chưa nghe nàng dạy dỗ, nghi lễ coi như vẫn chưa kết thúc.”

    Lòng tôi vốn đã nguội lạnh, nghe thấy thế lại càng chấn động, không kìm được nở một nụ cười chua xót. Thôi vậy, thì ra trong lòng y, tôi vốn chẳng xứng làm chiêu nghi, con người mà y hằng thương nhớ cũng chẳng phải là tôi.

    Y đưa mắt nhìn tôi, cất giọng cao cao tại thượng: “Đường Lê cung đã được sửa chữa xong xuôi, ngươi hãy về đó mà suy nghĩ lỗi lầm đi.”

    Sự thất sủng của tôi diễn ra chỉ trong một đêm như thế, tất cả mọi thứ đều thay đổi hoàn toàn. Đường Lê cung vừa được xây mới, tinh tế và tao nhã vô cùng, tượng trưng cho sự cao quý và ân sủng, vậy mà chỉ sau một đêm đã biến thành một nhà lao băng giá.

    Đêm hôm trở về Đường Lê cung, nước mắt tôi không ngừng chảy dài không ngớt. Cái lạnh của mùa xuân vẫn bao phủ màn đêm, chăn đệm đều bị nước mắt thấm ướt. Ánh trăng lẳng lặng chiếu vào từ bên ngoài cửa sổ, nhìn như một mảng nước nhợt nhạt mà chết chóc. Tôi vô cùng tỉnh táo, từ lúc bầu trời còn ngợp bóng đêm vô tận đến khi màu bụng cá hiện lên phía đằng đông, tôi đều không cảm thấy buồn ngủ.

    Trái tim tôi từ sự đau đớn và nóng bỏng dữ dội lúc ban đầu dần trở nên nguội lạnh theo sự lụi tàn của chậu than sưởi ấm trong phòng. Sự nhục nhã và đau đớn tột cùng kia khiến trái tim vốn đã không hoàn chỉnh của tôi như bị bóp nát thành từng mảnh.

    Tôi dần tỉnh ngộ, hiểu ra rằng tất cả chẳng qua chỉ là một cạm bẫy và nó được bắt đầu từ bộ lễ phục bị rách kia. Và sau sự tỉnh ngộ ấy, tôi thấy đau buồn, nhục nhã tột cùng… Tất cả tình ý và sự ân sủng mà y trao cho tôi, chẳng qua chỉ là vì tôi giống với một người khác.

    Hoàn Hoàn. Trong lòng y, tôi chẳng qua chỉ là sự thay thế của Thuần Nguyên Hoàng hậu mà thôi.

    Sau một thời gian dài mở mắt và khóc nức nở, đôi mắt tôi trở nên khô khốc và nhói đau. Sự tĩnh lặng qua đi, rốt cuộc đã có người đẩy cửa đi vào, là Cận Tịch. Nàng ta khẽ cất tiếng gọi: “Nương nương.”

    Tôi vẫn ngẩn ngơ ngồi đó. Người trong Đường Lê cung đều đã bị giam cầm cùng tôi, sự sợ hãi lan tràn khắp nơi, căn bản không có ai dám tới làm phiền tôi. Cận Tịch khom người hành lễ, chậm rãi nói: “Nương nương nhất định phải chú ý giữ gìn, đừng thương tâm quá mà ảnh hưởng tới thân thể.”

    Tôi đã chẳng còn nước mắt, trong điện vô cùng tối tăm, nàng ta lại đứng ở nơi ngược sáng, vậy mà khuôn mặt vẫn toát lên vẻ lo lắng vô cùng. Tôi ngẩng lên, lần đầu tiên nhìn Cận Tịch một cách chăm chú. Từ nơi cổ họng truyền tới cảm giác khàn khàn đau đớn, tôi đột nhiên cười lạnh. “Cận Tịch, trước đây ta từng hỏi ngươi vì sao lại vô cớ trung thành với ta như thế, ngươi chỉ nói là do duyên phận, bây giờ, có thể nói cho ta biết chưa?”

    Nàng ta cắn chặt môi, lặng im quỳ một chỗ, không nói một lời. Khóe môi tôi dần nhếch lên, khi trái tim đang ngợp đầy nỗi bi thương và oán hận, nụ cười của tôi ắt hẳn vô cùng đáng sợ. “Là vì trông ta giống Thuần Nguyên Hoàng hậu có phải không?”

    Nàng ta chậm rãi gật đầu rồi lại lắc đầu, nói: “Nương nương và Thuần Nguyên Hoàng hậu kỳ thực không giống nhau lắm.”

    Tôi khẽ cười nghi hoặc, hoàn toàn không tin, nói: “Vậy sao?” Rồi lại lẩm bẩm một mình: “Đến tận bây giờ ta mới biết đấy!” Vẻ mặt của Đoan Phi khi lần đầu gặp tôi bỗng lại hiện ra trước mắt, tại sao mới gặp tôi mà nàng ta đã tỏ ra kinh ngạc như thế, rồi còn nói ra những lời như vậy? Nàng ta là phi tử nhập cung sớm nhất, tất nhiên từng nhìn thấy dung mạo của Thuần Nguyên Hoàng hậu.

    Cận Tịch khẽ nói: “Ba phần dung mạo, năm phần tính tình, vậy là đã đủ để Hoàng thượng rung động rồi!”

    Tôi khẽ cười đau đớn, cất giọng tự giễu: “Ba phần dung mạo? Năm phần tính tình? Cũng đủ để khiến ngươi trung thành với ta rồi sao? Mà không, ngươi chỉ thực sự trung thành với Thuần Nguyên Hoàng hậu thôi.”

    Cận Tịch vẫn cung kính quỳ ở đó, khẩn thiết nói: “Nô tỳ không hề có phúc được hầu hạ tiên Hoàng hậu, chỉ vì cơ duyên xảo hợp nên mới từng được tiên Hoàng hậu giúp đỡ một lần.” Cận Tịch bình tĩnh nhìn tôi, cặp mắt trong veo như nước. “Giống nhất là khi nương nương mặc chiếc áo cũ đó của tiên Hoàng hậu. Tiên Hoàng hậu tâm địa quá lương thiện, còn nương nương tuy hay mềm lòng nhưng cũng có lúc quyết đoán. Cận Tịch trung thành với nương nương một phần là vì sự nhân từ của tiên Hoàng hậu nhưng chủ yếu vẫn là vì bản thân nương nương.”

    Tôi đưa mắt nhìn nàng ta, khó kìm nén nổi sự tò mò và không cam tâm nơi đáy lòng. “Thuần Nguyên Hoàng hậu, đó rốt cuộc là người thế nào?”

    Cận Tịch khẽ nở nụ cười, vành mắt đã lại đỏ hoe. “Thuần Nguyên Hoàng hậu không nên tồn tại ở chốn nhân gian, trên đời này không có ai lương thiện hơn người được.” Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, nàng ta cũng chỉ nói thêm: “Tiên Hoàng hậu tựa như một vị thần tiên giữa phàm trần, những thứ khói bụi thế gian sẽ chỉ làm vấy bẩn người mà thôi!”

    Tôi ngạc nhiên khôn cùng, hồi nhỏ nghe người ta kể về Thuần Nguyên Hoàng hậu, tôi chỉ nghĩ đó là một nữ tử xinh đẹp và hiền lương thục đức, giỏi múa điệu Kinh hồng, rất được Huyền Lăng yêu quý, trong cung không ai không phục. Sau khi vào cung, tôi cũng chỉ biết thêm được một chút về nàng ta, rằng tài gảy tỳ bà của Đoan Phi kỳ thực là do nàng ta truyền dạy, tài năng như thế tôi quả không thể sánh bằng.

    Tôi thầm cảm thấy buồn bã. “Nàng ta… nhất định là một người rất tốt.”

    Cận Tịch khẽ nói: “Nếu nương nương là một bông tường vi có gai, vậy thì Thuần Nguyên Hoàng hậu là một bông bách hợp trong nước, chỉ tiếc rằng trong cung đầy ắp bùn lầy, bách hợp không thể nở hoa thật đẹp.”

    Cận Tịch nói rất chân thành, thẳng thắn, tôi nghe mà xúc động vô cùng. Tôi nghiêng đầu nhìn nàng ta, đau đớn nói: “Tường vi có gai? Cho dù có gai cũng chẳng thể địch lại vô số minh thương ám tiễn chốn hậu cung, bị trúng phải cạm bẫy mà khó lòng biện bạch. Hiện giờ ta đã thất sủng, mà lần này khác với lúc xưa, e là chẳng còn cơ hội chuyển mình được nữa, ngươi có trung thành với ta cũng chẳng ích gì.”

    Cận Tịch trịnh trọng khấu đầu, thưa: “Việc lần này cũng là do nô tỳ sơ suất, nô tỳ cảm thấy chiếc áo đó quen mắt, nhưng nhất thời lại không nhớ ra đó là áo cũ của tiên Hoàng hậu, hơn nữa trước đây, Khương công công chưa từng hầu hạ tiên Hoàng hậu, quả thực chúng ta đã bị trúng kế của kẻ khác rồi.” Thoáng dừng lại, nàng ta nói tiếp: “Hôm qua, sau khi nương nương được đưa về, nghe nói Hoàng thượng đã sai người dùng gậy đánh chết Khương công công.”

    Tôi nghe thấy thế thì thầm chấn động, lại càng cảm thấy khó chịu. “Y kỳ thực đã bị ta làm liên lụy, đồng thời cũng là một con cờ trong tay kẻ khác.” Tôi nắm lấy bàn tay Cận Tịch, áy náy nói: “Ta không nên nghi ngờ sự trung thành của ngươi, dù có một phần nguyên nhân là vì tiên Hoàng hậu nhưng ít nhất ngươi cũng tốt với ta. Nhưng còn Hoàng thượng…” Tôi không nói tiếp, chỉ khẽ cười lạnh. “Lần này Hoàng hậu quả đã tốn nhiều tâm tư thật!”

    Cận Tịch giật mình đánh thót,au một thoáng trầm tư mới hỏi: “Sao nương nương lại nghĩ vậy?”

    “Nếu không phải nàng ta cố ý thì ai có thể động vào đồ cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu được đây, với cả sao có thể trùng hợp như thế?” Trái tim bất giác thầm run rẩy, thủ đoạn của Hoàng hậu, tôi không phải không biết, trong việc liên thủ dọa nạt Lệ Quý tần, tiêu diệt Hoa Phi, chúng tôi hợp tác với nhau ăn ý vô cùng, nàng ta cũng chẳng phải người đoan trang, hiền thục gì cho cam! Sau tiếng cười lạnh, tôi lại cảm thấy hơi run sợ, tôi nào từng nghĩ đến việc bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình phía sau. Người ta vẫn nói: “Thỏ chết rồi, chó săn cũng vào nồi” quả không sai chút nào!
    Còn chẳng phải thế sao?

    Cận Tịch cúi đầu, khẽ cắn môi, nói: “Nương nương không hề có lòng lật đổ Hoàng hậu, chỉ là nương nương được thăng tiến không ngừng, lại được Hoàng thượng ân sủng, Hoàng hậu chắc hẳn kiêng dè điều này.”

    Tôi đứng dậy, ngẩn ngơ nhìn quanh bốn phía. “Ta đã làm mất lòng Hoàng thượng, không được lòng Hoàng hậu, lỗi lầm phạm phải lại liên quan tới tiên Hoàng hậu, đó chính là chỗ thương tâm của cả Hoàng thượng, Hoàng hậu và Thái hậu.”

    Cận Tịch cau mày nói: “Việc này quả đúng là đã không thể vãn hồi được nữa, nương nương chỉ có thể lẳng lặng chờ thời cơ thôi.”

    “Thời cơ?” Tôi ngó quanh bốn phía, nhìn Đường Lê cung vừa được tu sửa, trang hoàng, lúc này nó có khác gì một tòa lãnh cung thực sự? Ngày đó, vì bảo vệ tôi nên Huyền Lăng mới đưa tôi đến Vô Lương điện, nhằm tránh khỏi những tranh đấu chốn hậu cung, tình nghĩa đương nhiên sâu nặng. Nhưng sự giam cầm lúc này thì đâu giống với dạo xưa chút nào. Thôi vy, thôi vậy!

    10

    Ngày tháng trôi đi trong lặng lẽ, tất cả mọi sự ưu đãi dành cho Đường Lê cung trước đây đều bị triệt bỏ hoàn toàn. Người bên ngoài không rõ còn chê cười tôi đến mức nào, bị phế truất ngay trong ngày được sắc phong, chắc tôi có thể tính là người đầu tiên. Huyền Lăng yêu cầu phủ Nội vụ chỉ cho tôi đãi ngộ của một quý nhân, mà sau cái chết của Khương Trung Mẫn, người của phủ Nội vụ bắt đầu hà khắc vô cùng, toàn đưa tới đồ thứ phẩm. Một số cung nữ, thái giám trong Đường Lê cung lúc này đã bắt đầu cất lời oán than không ngớt, may mà mấy người Cận Tịch và Tiểu Doãn Tử còn kìm nén được, mọi người đều cố sức nhẫn nhịn.

    Lòng tôi dù đang đau đớn khôn cùng nhưng cũng không muốn rửa mặt bằng nước mắt nữa. Chỉ là dù có kiềm chế đến mấy, sự đau xót và oán hận kia vẫn cứ đè nặng trong lòng, tựa như một tảng đá lớn, dần khiến tôi chẳng thiết ăn uống gì nữa.

    Trong dịp đầu xuân rét lạnh, tuyết lớn chưa từng ngừng rơi, Đường Lê cung ở nơi vắng vẻ, lại có nhiều khí âm hàn ẩm ướt, vậy mà lúc này than sưởi ấm còn bị phủ Nội vụ ngừng cung cấp, chẳng còn thứ gì để sưởi ấm, chăn nệm trong cung gần như đều ẩm ướt đến nỗi có thể vắt được ra nước. Tuy đã mặc thêm mấy lớp quần áo nhưng chỉ sau mấy ngày, đôi tay, đôi chân vốn trắng mịn, nõn nà của tôi đã đầy những vết nứt nẻ, chỗ nào cũng tím tái, thỉnh thoảng còn rỉ máu. Hoán Bích và Lưu Chu nôn nóng không thôi, cũng chẳng kiêng kỵ gì nữa, đêm đêm đều ngủ chung với tôi, cùng giúp nhau sưởi ấm. Tới lúc này, tôi mới phát hiện tay chân bọn họ cũng đều nứt nẻ rồi.

    Tôi không sao kìm nén được, trong cơn xót xa, cả ba người cùng ôm nhau khóc. Tôi rơm rớm nước mắt, nói: “Khi xưa còn làm nô tỳ trong phủ, bọn muội cũng chưa từng phải chịu khổ thế này, không ngờ bây giờ lại…”

    Hoán Bích dùng đùi giữ ấm bàn chân tôi, thương cảm nói: “Nương nương cũng nào phải chịu khổ thế này, Hoàng thượng thực quá…”

    Lưu Chu đưa tay lau nước mắt, căm phẫn nói: “Nô tỳ ra sức van cầu, chỉ mong phủ Nội vụ có thể linh động một chút, đưa tới ít thuốc cao chữa nứt nẻ, hoặc là cho mang tới một ít than đá cũng tốt! Ai ngờ bọn họ chẳng thèm để ý, còn không cho nô tỳ ra ngoài, chỉ đứng ngoài cửa mà không ngừng giễu cợt. Khi trước đám người đó đã hết lòng nịnh nọt, bợ đỡ chúng ta thế nào chứ?”

    Hoán Bích thở dài một tiếng, trừng mắt nhìn Lưu Chu. “Ngươi hãy dừng lại đi thôi, còn lo chưa đủ phiền muộn hay sao?”

    Lưu Chu hậm hực nói: “Rồi sẽ có ngày ta cho bọn họ biết sự lợi hại của bà cô Lưu Chu này!” Nói rồi liền ủ bàn tay tôi vào trước ngực mình. Bàn tay Lưu Chu cũng lạnh băng, chỉ duy có nơi trước ngực là còn một chút hơi ấm, nhưng lại trao hết cho tôi. Tôi ôm chặt lấy bọn họ, trong lòng càng cảm thấy khó chịu hơn. “Vốn ta định tìm cho bọn muội một nơi chốn tốt nhưng sợ là không thể nữa rồi, bây giờ ta đến thân mình còn khó giữ, không những thế còn làm liên lụy đến bọn muội.”

    Hoán Bích khẽ lắc đầu, chỉ lặng im rơi nước mắt. Lưu Chu khẳng khái nói: “Lẽ nào nô tỳ đi theo nương nương chỉ là để hưởng phúc thôi sao? Nô tỳ từ nhỏ đã đi theo nương nương, cũng đã được hưởng sự an nhàn, vui vẻ rồi, bây giờ tất nhiên phải cùng nương nương gánh vác khổ nạn. Cả con người nô tỳ đều là của nương nương.”

    Nước mắt tôi tuôn rơi lã chã. “Ta nào đã từng coi bọn muội như kẻ nô tỳ.”

    Trong mắt Hoán Bích lấp lánh ánh lệ. “Lưu Chu nói không sai, có khổ nạn bọn nô tỳ tất phải cùng nương nương gánh vác, chỉ cần chúng ta đồng sức đồng lòng, lẽ nào còn lo có khó khăn nào không vượt qua được?”

    Ánh trăng hôm nay mờ mờ ảo ảo, rải xuống mặt đất những bóng xám hững hờ, gian điện giữa màn đêm càng thêm lạnh lẽo. Lòng tôi chứa chan nỗi xót xa, lại sợ trở mình sẽ khiến Lưu Chu và Hoán Bích thức giấc, liền nằm im ở đó. Ánh trăng lạnh lẽo chiếu xuống màn, hôm nay lại là ngày cuối tháng, vầng trăng cong như lưỡi liềm, không ngừng cứa vào trái tim tôi. Trăng có khi tròn khi khuyết, ngày ngày đều biến ảo không ngừng, nhưng nếu nói tới sự biến hóa đa đoan của lòng người, vầng trăng chỉ có tỏ mờ tròn khuyết há lại so bì được?

    Tôi nằm trong màn, thầm thở dài một tiếng.

    Có lẽ vì nhiều ngày liền ăn uống không điều độ, thân thể tôi dường như đã mất hết sức lực, tinh thần cũng rất kém. Chắc bởi nguyên nhân này nên kỳ kinh vốn chẳng mấy chuẩn xác của tôi đến muộn hơn so với tháng trước vài ba ngày, cả thân thể và tinh thần tôi đều có cảm giác tê mỏi đến khó tả. Cận Tịch vô cùng lo lắng, đã mấy lần vì tôi mà tới nói chuyện với đám thị vệ xin cho mời thái y tới, nhưng đám thị vệ bên ngoài Đường Lê cung đều hết sức hung dữ, thái độ cũng tồi tệ, khi nôn nóng quá thì chỉ nói: “Hoàng thượng đã hạ chỉ rồi, không cho bất cứ người nào trong cung này ra ngoài. Những việc khác bọn ta không quản được.” Thế là mấy người Cận Tịch chỉ có thể trơ mắt nhìn tôi ngày một tiều tụy hơn.

    Rốt cuộc đến một ngày, khi ngủ dậy thay quần áo, tôi không cầm cự nổi nữa, trượt chân ngã xuống đất bất tỉnh.

    Khi tỉnh dậy, tôi thấy Ôn Thực Sơ đang ở ngay cạnh mình, trong điện đã có chậu than, vừa ấm áp vừa sáng sủa. Siêu thuốc bạc đang sôi sùng sục trên bếp, mùi thuốc tỏa ra hơi lợm giọng. Chăn đệm của tôi cũng đã được thay bằng loại mềm mại, khô ráo, nơi bàn chân được sưởi ấm bằng một bình nước nóng làm bằng đồng.

    Tôi đưa bàn tay lên, thấy tay mình được quấn một lớp vải mềm, không kìm được có chút kinh ngạc. Cận Tịch đứng bên cạnh cười tủm tỉm, nói: “Nương nương đừng động đậy kẻo lại làm bẩn quần áo, tay người vừa được bôi dầu chồn trị chứng nứt nẻ.” Nàng ta bưng tới một bát canh tổ yến, khẽ thổi mấy hơi, sau đó dùng thìa bạc bón cho tôi từng chút. Tôi vẫn còn khá mệt, đầu óc lại choáng váng, chỉ biết nhìn quanh bốn phía mà thầm cảm thấy nghi hoặc, trong lúc bị giam cầm, sự đãi ngộ này từ đâu ra? Nhưng bình nước nóng dưới chân lại sờ sờ ra đó, khiến tôi nhận thức được rõ ràng đây không phải là mơ.

    Tôi đưa mắt nhìn Ôn Thực Sơ, được gặp lại cố nhân, đôi mắt tôi bất giác nhòe lệ. “Ôn đại nhân.”

    Hắn đáp lại một tiếng, trong mắt thoáng qua nét dịu dàng và xót xa, nhưng lại cố hết sức kìm nén, hành lễ nói: “Vi thần chúc mừng nương nương!”

    Ý thức của tôi có chút mơ hồ, bất giác đưa tay sờ bụng, vừa nghi hoặc vừa bất ngờ đưa mắt nhìn hắn. “Vậy sao?”

    Cận Tịch rơi nước mắt, khẽ ngoảnh đầu lau đi, sau đó liền dẫn một đám cung nữ, thái giám vào nhất tề quỳ xuống chúc mừng: “Chúc mừng nương nương!” Nàng ta nói: “Thái y nói nương nương đã có thai được một tháng rồi!”

    Lòng tôi thầm ngơ ngẩn, có chút mừng rỡ nhưng trong sự mừng rỡ lại chứa chan nỗi bi thương. Tôi đã từng hết sức mong ngóng có một đứa con mà chẳng được, khi rơi vào tình cảnh tồi tệ này thì lại có thai, thực không biết sau này là tôi nương tựa vào nó hay là làm liên lụy đến nó nữa. Tôi vuốt ve bụng mình, cơ hồ muốn rơi lệ.

    Sau đó, mọi người đều lui đi, chỉ còn lại Ôn Thực Sơ và Cận Tịch ở bên cạnh tôi. Cận Tịch đi trông siêu thuốc, Ôn Thực Sơ thì thăm mạch cho tôi. “Nương nương tâm tư xao động quá nhiều, thai khí không ổn định, từ nay về sau nhớ đừng tức giận và thương tâm nữa.”

    Tôi ngoảnh đầu qua một bên, cố kìm nén cảm giác cay sè nơi sống mũi, hỏi: “Đại nhân cho rằng bản cung bây giờ nên làm thế nào?”

    Hắn buông tiếng thở dài. “Đây là cơ hội duy nhất để nương nương trở mình.” Sau đó lại an ủi tôi: “Hoàng thượng đã hạ chỉ cho vi thần phụ trách việc chăm sóc nương nương, tuy chưa khôi phục lại đãi ngộ của một quý tần nhưng đã cho phép hưởng đãi ngộ của bậc tần rồi. Hoàng hậu cũng đã sai người đặc biệt để ý tới việc ăn uống, ngủ nghỉ của nương nương, nương nương hoàn toàn có thể yên tâm.”

    Tôi nở nụ cười thê thảm. “Vậy sao? Đại nhân cho rằng đây là cơ hội trở mình của bản cung sao? Nếu đúng là vậy, vừa rồi đại nhân nói nhiều như thế, sao không có lời nào để cập tới việc xóa bỏ lệnh cấm túc với bản cung, mà Hoàng thượng cũng chẳng có một lời an ủi. Huống chi cái gọi là hưởng đãi ngộ bậc tần này chẳng qua là vì đứa bé trong bụng bản cung, không phải là vì bản cung.”

    Hắn im lặng, trên mặt lộ rõ nét buồn rầ. Cận Tịch ở bên cạnh cũng ngẩn ngơ ngừng quạt bếp lò, cúi đầu ngẫm nghĩ. Trong điện nhất thời tịch mịch lạ thường, chỉ còn lại tiếng sủi ùng ục phát ra từ chiếc siêu bạc, từng làn hơi trắng không ngừng bốc lên.

    Ôn Thực Sơ tha thiết gọi: “Nương nương…” Giọng nói nghe đã có chút nghẹn ngào.

    Tôi ôm chiếc bình nước nóng vào lòng để sưởi ấm, khẽ nở nụ cười. “Đại nhân thương tâm làm gì chứ? Bản cung còn chưa thương tâm, ngài đã thương tâm thay bản cung rồi.” Bình nước nóng thực nóng biết mấy, áp sát vào lồng ngực lạnh băng của tôi qua lớp áo. Tôi cúi đầu, nói với giọng kiên định: “Dù thế nào đi nữa, bản cung cũng tuyệt đối không coi rẻ bản thân, khiến đứa bé này phải chịu ấm ức. Còn chưa vào lãnh cung, mà cho dù vào lãnh cung rồi thì bản cung cũng nhất định phải nuôi nấng đứa bé này cẩn thận cho tới lúc nó trưởng thành.”

    Ôn Thực Sơ thở phào một hơi, giọng nói nghe có vẻ thoải mái hơn nhiều: “Vậy thì tốt. Vi thần chỉ lo nương nương sẽ coi rẻ bản thân.” Thoáng dừng một chút, hắn lại tiếp: “Có câu nói này của nương nương, vi thần nhất định sẽ dốc sức chăm sóc cho nương nương thật tốt.”

    Tôi nở một nụ cười buồn, nơi đáy lòng trào dâng sự ấm áp và cảm kích. Tình ý của Ôn Thực Sơ với tôi kiếp này tôi không thể đáp lại được rồi, nhưng dù là vậy, trong chốn thâm cung lạnh lẽo này, hắn vẫn giống như một người thân luôn ở kề bên và hết lòng quan tâm đến tôi.

    Tôi cười trong nước mắt, chậm rãi nói: “Ôn đại nhân và bản cung quen biết nhau từ nhỏ, hẳn biết rõ bản cung sẽ không bao giờ tự coi rẻ mình.”

    Hắn nở một nụ cười thư thái. “Nương nươngà vi thần biết chưa bao giờ khiến vi thần phải thất vọng.”

    Tôi nói: “Vậy bản cung và thai nhi trong bụng này xin được giao phó cho đại nhân.”

    Sau khi Ôn Thực Sơ rời đi, chỉ còn lại Cận Tịch ở bên cạnh chăm sóc cho tôi. Nàng ta cẩn thận cài lại mép chăn, vui vẻ nói: “May mà có Ôn đại nhân tới chăm sóc cho nương nương, có điều bây giờ mọi chuyện vẫn cần phải cẩn thận.” Rồi nàng ta lại an ủi tôi: “Lúc này có đứa con cũng tốt, ít nhất Hoàng thượng cũng sẽ không tuyệt tình quá!”

    Tôi khẽ nở nụ cười thê lương, hỏi: “Ngươi cũng cảm thấy Hoàng thượng quá tuyệt tình sao?”

    Trong cung có biết bao đứa bé không thể ra đời, mỗi bước đi đều ẩn chứa đầy nguy hiểm. Bây giờ Huyền Lăng bạc tình, tôi chỉ có thể dựa vào bản thân mà thôi.

    Tôi cố gắng khoác áo đứng dậy, sai Cận Tịch đi lấy văn phòng tứ bảo tới. Cận Tịch vâng lời làm theo, nhưng vẫn khuyên nhủ: “Bây giờ nương nương hãy còn yếu, đợi thân thể khỏe hơn chút hãy viết.”

    Tôi lắc đầu, cầm bút viết lách một hồi rồi giao bức thư cho Cận Tịch: “Ta đang có thai, Hoàng thượng nhất định sẽ xem thư của ta. Hãy nghĩ cách đưa bức thư này cho Hoàng thượng.”

    Cận Tịch hỏi: “Nương nương viết những gì vậy?”

    Tôi tập trung tinh thần quá mức, lại càng cảm thấy mệt mỏi, ngồi tựa vào thành giường, nói: “Ta xin Hoàng thượng hạ chỉ, để Hoàng hậu đích thân phụ trách việc sinh nở của ta.”

    Cận Tịch cả kinh. “Nương nương vốn đã nghi ngờ việc ngày hôm đó là cạm bẫy của Hoàng hậu, tại sao còn xin để Hoàng hậu chăm sóc cho mình?”

    Tôi cười gượng, nói: “Đúng là như thế nhưng trong cung bây giờ Hoàng hậu nắm mọi quyền hành, ta muốn giữ đứa bé này, chỉ dựa vào bản thân thì chưa đủ. Hoàng hậu bày kế hãm hại ta như thế, nhất định là vô cùng căm ghét ta, chắc hẳn cũng căm ghét đứa bé trong bụng ta. Bây giờ điều quan trọng nhất là phải lựa sức mà làm, ta không thể lấy cứng chọi cứng với Hoàng hậu được. Bây giờ ta xin Hoàng thượng để nàng ta phụ trách việc sinh nở của ta, nếu xảy ra vấn đề gì, nàng ta cũng không thể thoát khỏi can hệ. Vì bản thân mình, nàng ta nhất định sẽ không hại tới đứa bé trong bụng ta, cũng không để người khác bày trò.”

    Cận Tịch buồn bực ra mặt nhưng cũng tán đồng suy nghĩ của tôi: “Muốn mọi sự bình an, cũng chỉ có cách này thôi. Nương nương nếu muốn đắc sủng trở lại, tất cả hy vọng đều phải trông vào đứa bé này.”

    Tôi buồn bã lắc đầu, Huyền Lăng đã như vậy rồi, lẽ nào tôi còn bằng lòng đi tranh sủng để làm thế thân cho một người khác? Nếu nhất định phải thế, thà giết tôi đi còn hơn, giờ đây tôi chỉ mong đứa bé này có thể bình an trưởng thành thôi.

    Tôi chỉ nói: “Ngươi mau đi đi!” Trước mặt người khác, Hoàng hậu luôn tỏ ra nhân từ, hiền hậu, một khi Huyền Lăng ban xuống ý chỉ này, nàng ta nhất định sẽ không cự tuyệt.

    Tôi cúi đầu vuốt ve phần bụng vẫn còn phẳng lì của mình, thầm hạ quyết tâm: Con ơi, dù phụ hoàng của con không thương yêu con, không thương yêu mẹ, mẹ cũng sẽ dốc hết sức mình bảo vệ cho con được bình an.

    Cận Tịch cất bức thư đi, mỉm cười, nói: “Canh tổ yến nguội rồi, nô tỳ đi mang một ít sữa bò nóng về cho nương nương.”

    Tôi tiện miệng nói: “Đợi chút đã, miệng ta bây giờ nhạt thếch, chẳng có chút cảm giác thèm ăn nào, bảo Lưu Chu dặn nhà bếp làm một bát cháo tôm nõn mang tới đây đi!”

    Sắc mặt Cận Tịch có chút cổ quái, khẽ vâng một tiếng, vội vàng rời đi. Một lát sau đã có người bưng cháo vào nhưng lại là Hoán Bích. Hoán Bích ngồi xuống nơi đầu giường, cầm bát cháo, tươi cười nói: “Nương nương bây giờ đang có thai, một người ăn hai người bổ, nhất định phải ăn nhiều một chút mới được.”

    Tôi vốn chẳng thèm ăn lắm, chẳng qua chỉ nhất thời nghĩ đến mà thôi, đợi khi cháo thực sự được bưng tới trước mặt rồi thì lại cảm thấy mất hứng. Nhưng thấy Hoán Bích rất mực ân cần, tôi cố gắng ăn lấy vài miếng, sau đó hỏi: “Sao không phải là Lưu Chu? Vừa rồi khi bọn muội vào chúc mừng, ta cũng không thấy muội ấy đâu.”

    Hoán Bích cười tủm tỉm, nói: “Nương nương chê nô tỳ hầu hạ không tốt sao, chỉ nghĩ tới Lưu Chu thôi!”

    Tôi thấy Hoán Bích ngoài miệng tuy cười nhưng khóe mắt lại đỏ hoe, không kìm được thầm nghi hoặc. “Lưu Chu sao rồi?”

    Hoán Bích vội nói: “Đâu có sao, chỉ là mấy ngày vừa rồi Lưu Chu ngủ không được ngon, bị nhiễm phong hàn, bây giờ còn đang ngủ.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, chuẩn bị đi ngủ. Nhưng có lẽ vì thời gian vừa qua phong ba không ngớt, tâm trạng tôi chẳng được yên ổn, liền vén chăn ngồi dậy, nói: “Ta đi thăm muội ấy một chút.”

    Hoán Bích vội đứng dậy ngăn tôi, tôi lại càng cảm thấy nghi ngờ. Hoán Bích thấy đã không thể ngăn được nữa, bèn quỳ rạp xuống đất, cắn chặt môi khóc nức nở, nói: “Nương nương không cần đi nữa, Lưu Chu đã chết rồi.”

    Tôi cả kinh, vội hỏi: “Muội nói cái gì?”

    Hoán Bích nghẹn ngào khóc lóc không thôi: “Nương nương cho rằng thái y làm thế nào mà vào được đây? Thị vệ bên ngoài không hề để ý tới sự cầu xin của bọn nô tỳ, là Lưu Chu đã liều chết lao vào đao của bọn họ, người bên ngoài sợ gây ra án mạng nên mới đi gọi thái y tới, nhưng cũng chỉ có Ôn thái y chịu tới, đáng tiếc, tính mạng của Lưu Chu thì đã không thể cứu được.”

    Lưu Chu từ nhỏ đã đi theo tôi, tình cảm thân thiết như chị em ruột, nghe thấy tin dữ này, lòng tôi đau như xé, cơ hồ ngã nhào vào lòng Hoán Bích. Hoán Bích nôn nóng, bật khóc nức nở. “Nô tỳ vốn muốn giấu không để nương nương biết việc này, sợ làm tổn thương thai nhi, nương nương nhất định đừng thương tâm quá!”

    Đương lúc khóc lóc, Cận Tịch từ ngoài chạy vào, nhìn thấy cảnh này thì biết ngay là không hay, vội vàng đỡ tôi ngồi xuống, khẩn thiết nói: “Nương nương dù thương tâm nhưng cũng xin hiểu rõ, giữ gìn sức khỏe bản thân mới là điều quan trọng nhất. Lưu Chu cô nương vì nương nương mà chết, nương nương không thể để cô ấy chết uổng được. Nương nương nhất định phải giữ cho mình chu toàn, như thế mới có thể báo thù cho Lưu Chu cô nương.”

    Tôi nghiến chặt hai hàm răng, vì dùng sức quá độ nên nơi chân răng cũng hơi tê dại, tựa như đang ngậm một khối băng trong miệng. Hoán Bích khóc lóc van nài: “Nương nương nhất định phải giữ gìn thân thể. Nương nương không biết Lưu Chu chết thảm thế nào đâu, đầu chảy đầy máu, đến thân xác cũng không được chôn cất cẩn thận. Nếu nương nương thương tâm quá độ mà ảnh hưởng đến thân thể, sự hy sinh của Lưu Chu chẳng phải là uổng phí sao?”

    Tôi ngẩn ngơ rơi nước mắt. Tôi biết thân thế của Hoán Bích, xưa nay luôn đối xử với Hoán Bích rất hậu, không khỏi có chút qua quýt với Lưu Chu. Nhưng sau việc Hoán Bích phản bội ngày đó, tôi càng tin tưởng Lưu Chu hơn. Đáng tiếc, Lưu Chu và Hoán Bích theo tôi vào cung, còn chưa được hưởng phúc ngày nào thì đã vì tôi mà rơi vào kết cục như vậy, há chẳng phải là bị tôi làm liên lụy sao?

    Cận Tịch cầm lấy bàn tay tôi, vạch từng ngón tay đang nắm chặt của tôi ra, rơm rớm nước mắt, nói: “Bàn tay nương nương vừa mới bôi thuốc, cứ nắm chặt như vậy thì không tốt đâu.” Sau đó, nàng ta lại ngiêm túc khuyên nhủ: “Nương nương đã quên cái chết của Thuần Tần tiểu chủ ngày đó rồi sao? Khi đó, nương nương có thể nhẫn nhịn, hôm nay thì không thể sao? Nếu nương nương mà có bề gì, sau này có muốn báo thù cho Lưu Chu cũng không được nữa!”

    Những lời này hết sức chân thành, dù tôi khó chịu đến mấy cũng phải tiếp thu. Tôi cố gắng ngừng khóc, cất giọng kiên định nói: “Đúng vậy, ta nhất định phải cố gắng sống cho thật tốt, chỉ có như vậy, cái chết của Lưu Chu mới coi như không uổng phí.”
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 20: Gai góc đầy lòng trời chưa sáng
    Khi hoa đào nở rộ, những chú én mùa xuân lại bay về làm tổ. Những nhành dương liễu đung đưa nhè nhẹ, như quấn lấy làn gió xuân, khiến người ta có cảm giác nóng nực, mồ hôi không ngớt rỉ ra.

    Từ sau khi tôi có thai, Huyền Lăng chưa tới thăm hỏi lấy một lần, cũng không cho phép bất cứ người nào đến thăm, thậm chí đến cả My Trang cũng không được bước vào Đường Lê cung một bước. Y chỉ cho phép Phương Nhược mỗi ngày đến bầu bạn với tôi một canh giờ, trông coi việc ngủ nghỉ của tôi, hoặc đưa tôi tới Thượng Lâm uyển tản bộ một lúc. Tất cả mọi việc còn lại đều được giao cho Hoàng hậu xử lý.

    Tôi biết y vô cùng căm ghét tôi, bí mật mà y giấu kín không ngờ lại bị tôi biết được, chiếc áo của người mà y yêu bị tôi tùy tiện khoác lên người. Còn tôi cũng hết sức oán hận y, tình ý trong bao năm nay không ngờ lại phó thác nhầm chỗ.

    Dần dần, sự oán hận trở nên không còn cần thiết nữa. Nhớ lại việc ngày trước, y từng mấy bận dễ dàng hoài nghi và ghẻ lạnh tôi, tôi hiểu ra rằng địa vị của mình trong lòng y cũng chỉ có vậy.

    Người duy nhất có thể tùy ý ra vào là Ôn Thực Sơ, hắn cũng thường xuyên mang tới cho tôi một số tin tức bên ngoài. Đám thị vệ hại chết Lưu Chu đã bị Huyền Lăng phạt đến Bạc thất làm lao dịch. Huyền Thanh tuy có công trong việc bình định Nhữ Nam Vương nhưng lại từ chối mọi sự phong thưởng, vẫn tiếp tục làm một vị vương gia nhàn tản. Cha mẹ tôi và ca ca, tẩu tẩu tuy đều lo lắng cho tôi nhưng lại chẳng có cách nào, may mà Huyền Lăng không trút giận lên bọn họ. Người hắn nói tới nhiều nhất vẫn là My Trang, hôm nay tỷ ấy nhờ hắn đưa tới một hộp bánh ngọt mà tôi thích ăn, ngày mai là một phong thư có chiếc nơ như ý thắt bên ngoài, bên trên viết toàn những lời an ủi ấm áp, ngày kia lại là một chiếc áo yếm cho trẻ con. Tôi hiểu tâm ý của tỷ ấy, trong lòng cảm thấy dễ chịu vô cùng. Thỉnh thoảng Kính Phi và Đoan Phi cũng nhờ Ôn Thực Sơ gửi tới tôi những lời an ủi, duy chỉ có Lăng Dung là hình như đã hoàn toàn biến mất, không có chút tin tức nào, cũng không tỏ ý quan tâm tới tôi.

    Tôi gượng cười một tiếng, tuy thói đời nóng lạnh nhưng tự đáy lòng nàng ta chưa chắc đã không oán hận tôi.

    Tôi gặp lại Thụy Quý nhân một lần nữa ở Thượng Lâm uyển, đó cũng là nơi duy nhất mà tôi có thể lui tới lúc này.

    Dưới ánh nắng xuân rạng rỡ như gấm vóc, nàng ta mặc một chiếc áo lụa mỏng màu ngó sen, bên dưới là tà váy dài màu vàng nhạt, nhìn hết sức thanh nhã. Mái tóc trên đầu nàng ta búi cao, chỉ điểm xuyết bằng những món đồ trang sức bằng bạc, tựa một làn khói thoảng mây mù, khí cốt lộ rõ. Cho dù bây giờ tôi không có lòng dạ nào để ý tới người khác nhưng trong lòng vẫn không kìm được thầm khen một tiếng.

    Dường như nàng ta lúc nào cũng thanh nhã như vậy, khiến người ta vừa nhìn đã thấy dễ chịu, thư thái. Lúc này, nàng ta đang dắt tay thị nữ đứng trong đình Tùng Phong, nhìn cây tùng già xanh biếc mà cất tiếng ngâm: “Dài ngắn thon thon búp ngọc hồng, nghiêng con giấy Thục sáng bên song. Không cho chàng thấy che tay lụa, học viết uyên ương chữ chửa xong[1].”

    [1] Bài thơ Thập ức thi kỳ 5 của Lý Nguyên Ưng. Dịch thơ Lê Xuân Khải. Phiên âm Hán Việt: Tiêm ngọc sâm si tượng quản khinh, thục tiên tiểu nghiên bích song minh. Tụ sa mật yểm sân lang khán, học tả uyên ương tự vị thành.

    Thật là một bài thơ tươi đẹp, bên trong chan chứa tình cảm mặn nồng, khí chất của một nữ tử nơi khuê các cũng được lộ rõ. Tôi nghe nói nàng ta từng đọc khá nhiều thi thư nhưng nghe nàng ta ngâm thơ thì đây mới là lần đầu.

    Trái tim tôi bất giác nhói đau, nhớ thuở xưa, tôi và Huyền Lăng cũng từng đắm đuối trong những bài thơ nhi nữ tình trường thế này, còn giờ đây, tình ý ấy, Huyền Lăng chắc đã chuyển sang cho nàng ta.

    Thế nhưng tôi vẫn cất tiếng khen thật lòng: “Thơ của Thụy Quý nhân hay lắm!”

    Nàng ta nghe tiếng liền ngoảnh lại, kính cẩn hành lễ. “Nương nương an hảo!”

    Tôi mỉm cười, nói: “Trong thơ có mấy phần tình ý, chắc Thụy Quý nhân nói về bản thân mình đúng không?”

    Nàng ta nở một nụ cười trong trẻo, điềm đạm nói: “Dạ không!”, rồi nghiêng đầu nhìn qua bên cạnh. “Tần thiếp chẳng qua chỉ nghĩ về tình cảnh khi nương nương và Hoàng thượng ở bên nhau rồi tiện tay viết thôi, lời văn thô lậu, thực không đạt ý.”

    Nghe thấy những lời như vậy vào lúc này tôi vốn nên giận dữ, vậy nhưng chỉ im lặng, trong lòng cảm thấy buồn bã. Trong lúc tôi ngẩn ngơ, nàng ta lại tiện tay gấp tờ giấy viết bài thơ cất vào trong tay áo. “Tần thiếp đã mạo phạm rồi. Chỉ là khi xưa nương nương được ân sủng như thế, bây giờ lại rơi vào cảnh này, tần thiếp cảm khái sự khó lường của vận mệnh, thành ra có mấy phần thương cảm mà thôi!”

    Tôi nói: “Quý nhân kỳ thực chẳng cần thương cảm làm gì, chúng ta không giống nhau.”

    “Vậy sao?” Nàng ta tựa như tự hỏi mình, lại như là hỏi tôi: “Kỳ thực đều giống nhau cả thôi.”

    Nàng ta vào cung chỉ mới nửa năm, cũng khá được ân sủng, vậy mà lại có suy nghĩ rõ ràng và tỉnh táo như vậy, thực khiến tôi cảm thấy kinh ngạc. Nàng ta lại lấy ra một bài thơ khác, đưa cho tôi. “Nương nương nổi tiếng có tài thơ văn, xin hãy giúp thần thiếp đánh giá một chút.”

    Tôi cầm xem thử, thấy cũng là một bài thơ ngắn: “Môi đỏ hàm răng ngọc dễ ưa, mây xanh muốn xuống độ cao vừa. Cũng hay hát đến nơi tình tứ, giữ chậm dư âm ánh mắt đưa[2].”

    [2] Bài thơ Thập ức thi kỳ 4 của Lý Nguyên Ưng. Dịch thơ Lê Xuân Khải. Phiên âm Hán Việt: Nhất xuyến hồng nha toái ngọc xao, bích vân vô lực trú lăng tiêu. Dã tri xướng đáo quan tình xử, hoãn án dư thanh nhãn sắc chiêu.

    Tôi khẽ cười, nói: “Bản cung bây giờ thất thế, Quý nhân viết vài câu cũng chẳng sao, nhưng hà tất phải động chạm đến An Phương nghi, bây giờ nàng ta đang đắc thế, truyền ra ngoài thì không hay đâu. Huống chi với miệng lưỡi của người trong cung, dù vô tâm cũng sẽ thành hữu ý.”

    Nàng ta hơi cau mày, đôi hàng lông mày thanh tú như dính chặt vào nhau. “Tần thiếp không muốn giễu cợt ai, chỉ cảm thấy mọi người trong cung đều như nhau dù có địa vị cao thấp thế nào, càng không cần phải tranh đấu làm gì!” Thong dừng lại, nàng ta nói tiếp: “Đời người vốn đã có quá nhiều việc phiền não, bọn họ gây khó dễ cho nhau như vậy, tần thiếp chỉ cảm thấy bọn họ thật đáng thương.”

    Lòng tôi hiểu rõ, việc ở hậu cung há lại đơn giản như trong suy nghĩ của nàng ta, những sự tranh đấu có từng ít bao giờ?

    Tôi không nói gì, Phương Nhược đưa mắt thúc giục, ý bảo tôi không tiện ở lại lâu. Tôi hiểu ý, bèn nói với Thụy Quý nhân: “Bản cung chỉ muốn khuyên Quý nhân một câu, bản thân hiểu rõ là được, không cần phải động chạm đến người khác.”

    Nàng ta nở một nụ cười trong trẻo. “Đa tạ nương nương. Tần thiếp cũng không có ý động chạm đến người khác, chỉ tỏ lòng ngưỡng mộ nương nương, bây giờ đã có thể thanh tịnh hơn một chút rồi!”

    Thanh tịnh? Tôi cười lạnh, nơi nào mới thực sự thanh tịnh đây? Phật môn ư? Nhưng bên ngoài Phật môn chính là hồng trần, chẳng có nơi nào thực sự thanh tịnh cả.

    Nàng ta tiện tay xé bài thơ đó đi, hỏi: “Nương nương có biết tại sao tần thiếp lại thích đình Tùng Phong không?”

    Tôi đưa mắt nhìn nàng ta. “Quý nhân xin hãy nói ta nghe thử.”

    Nàng ta điềm đạm nói: “Tùng có khí tiết, hà tất phải làm giống hoa bợ đỡ.” Dứt lời, nàng ta liền ung dung rời đi.

    Nhìn theo bóng lưng nàng ta, tôi khẽ thở dài một tiếng. Phương Nhược nói: “Thụy Quý nhân đúng là một cô gái tốt!” Nàng ta không nói thêm nữa nhưng tôi lại biết, một cô gái tốt như vậy không thích hợp với cuộc sống trong cung, dù rằng nàng ta bây giờ đang đắc sủng.

    Thời tiết ngày một nóng hơn, đến độ tháng Sáu, tôi đã phải đổi sang mặc áo sa mỏng. Có thai năm tháng, thân thể tôi hết sức mỏi mệt và hay buồn ngủ, thường xuyên ngồi tựa trên chiếc sạp quý phi mà ngủ gật giữa ban ngày nhưng đến đêm thì lại không ngủ được, cái bụng đã nhô hẳn lên khiến tôi trằn trọc không yên, ngón chân và bắp đùi thỉnh thoảng lại bị chuột rút, hết sức khó chịu.

    Ôn Thực Sơ đến khám cho tôi rồi nói: “Nương nương nên uống nhiều canh ninh xương, nhớ cho thêm chút giấm, thường ngày nên ăn nhiều đậu phụ và rau quả, như vậy có thể chữa được chứng chuột rút. Còn nếu muốn ngủ ngon, trước khi đi ngủ hãy uống một chút sữa bò.”

    Hoán Bích đứng bên cạnh cẩn thận ghi nhớ. Ôn Thực Sơ lại viết thêm mấy phương thuốc an thai, nói: “Xin thứ cho vi thần nhiều lời, nương nương ngủ không ngon e là vì trong lòng có quá nhiều suy nghĩ, chỉ dùng thuốc thì khó mà có tác dụng được.”

    Tôi xắn tay áo lên, mỉm cười nói: “Đại nhân đã biết vậy hà tất phải nói nhiều làm gì. Đợi lát nữa đại nhân đi phục mệnh với Hoàng hậu, xin hãy thay bản cung gửi lời vấn an, cứ nói là bản cung tất thảy đều ổn.”

    Hắn nói: “Hoàng hậu nương nương được Hoàng thượng nhờ cậy, không dám lơ là qua loa với nương nương và thai nhi trong bụng, thường xuyên triệu vi thần tới hỏi han tình hình.”

    Tôi đưa mắt liếc hắn, chậm rãi nói: “Đại nhân biết cần phải ứng phó thế nào là được.”

    Sau khi trò chuyện một hồi, tôi lại hỏi: “Vết bỏng trên tay My Trang tỷ tỷ chắc cũng khỏi rồi, Ôn đại nhân đã đưa Thư ngân giao cho tỷ tỷ dùng rồi chứ? Hiệu quả thế nào?”

    Trên mặt lộ ra một tia buồn bã, Ôn Thực Sơ tiện miệng nói: “Đỡ hơn nhiều rồi!” Hắn do dự một chút, cuối cùng không nói gì thêm, chỉ bảo vết thương của My Trang kín miệng rất nhanh, còn về việc Thư ngân giao có hiệu quả hay không thì không nhắc tới. Sau đó, hắn lại cẩn thận dặn dò thêm một câu: “Sau này, nếu An Phương nghi có đưa vật gì tới cho nương nương, xin nương nương hãy để vi thần kiểm tra trước rồi hãy dùng.”

    Nhìn điệu bộ ân cần dặn dò của hắn, lại liên tưởng tới vẻ mặt không yên tâm của hắn ngày đó khi tôi đưa Thư ngân giao cho My Trang, trái tim tôi bất giác nhảy dựng lên, cảm thấy hết sức bất an. Cố giữ vẻ bình tĩnh, tôi nhẹ nhàng nói: “Đại nhân muốn bản cung tĩnh tâm dưỡng thai, không suy nghĩ nhiều, nhưng lại cứ nói năng mập mờ, không rõ ràng như vậy, há chẳng phải là càng khiến bản cung lo lắng, bất an hơn sao?” Tôi đưa mắt nhìn quanh Đường Lê cung một lượt, chậm rãi nói tiếp: “Đại nhân có gì xin cứ nói thẳng, lẽ nào đã rơi vào tình cảnh như ngày hôm nay rồi, bản cung còn có chuyện gì không chịu đựng nổi sao?”

    Trong mắt như có một tia sáng lóe lên, hắn do dự nói: “Thư ngân giao đó…”

    Khuôn mặt hắn lộ rõ vẻ không đành lòng và chán ghét, trong đầu tôi như có một tia sáng lóe lên, dù không muốn tin đến mấy thì lúc này cũng không thể không tin được. Tại sao mấy ngày trước khi sẩy thai, tôi cứ luôn cảm thấy thân thể không thoải mái? Tại sao mới chỉ ngửi Hoan nghi hương mấy canh giờ và quỳ nửa canh giờ trong cung Hoa Phi mà tôi đã sẩy thai? Tại sao sau khi tôi sẩy thai, Ôn Thực Sơ lại chuẩn đoán ra trong cơ thể tôi có xạ hương, mà sự giải thích của Lăng Dung lại là vì Hoan nghi hương?

    Xạ hương? Thân thể tôi run lên dữ dội, cảm thấy chẳng còn chút sức lực, phải cố gắng lắm mới có thể cất tiếng hỏi Ôn Thực Sơ: “Trong Thư ngân giao đó có xạ hương phải không?”

    Hắn hơi sững sờ. “Nương nương…”

    Tôi ra sức nắm chặt bàn tay, nín thở nói: “Đại nhân nói đi!”

    Hắn hết cách, đành nói: “Vi thần… Trong Thư ngân giao đó có khá nhiều xạ hương, nếu thông qua vết thương đi vào da thịt thì chẳng khác gì ăn uống mỗi ngày, hơn nữa hương hoa của nó nồng đậm như vậy chính là để che giấu mùi của xạ hương, nếu không phải là người hiểu về hương liệu thì quyết không thể phối chế ra được.” Hắn nắm chặt ống tay áo của mình, nói tiếp: “Kỳ thực, người đứng sau việc này chưa chắc đã là An Phương nghi, vi thần cũng chỉ phán đoán thôi, dù sao Thư ngân giao để trong tẩm cung của nương nương cũng có thể có người động đến…”

    Thư ngân giao là do tự tay Lăng Dung tự tay điều chế, mỗi ngày tôi đều mang theo bên người để dùng, chắc hẳn không một ai có thể động đến. Mà nếu không phải người hiểu rõ về hương liệu như nàng ta, ai lại có thể nắm rõ được chừng mực để khiến tôi không phát hiện ra như thế?

    Có điều, không biết nàng ta làm như vậy là do ý của bản thân hay là do người khác sai khiến, mà tại sao nàng ta lại căm hận tôi đến mức này, ngay đến đứa bé trong bụng tôi ngày đó cũng không chịu buông tha?

    Thân thể tôi lạnh toát từng cơn, nỗi căm hận trào dâng trong lòng, lồng ngực bức bối đến khó chịu, cảm thấy buồn nôn vô cùng, không kìm được “ọe” một tiếng, nôn thốc nôn tháo một hồi. Ôn Thực Sơ không hề ngại bẩn, vội bước tới đỡ lấy tôi, Hoán Bích giúp tôi lau khóe miệng. Ôn Thực Sơ hỏi với giọng quan tâm: “Nương nương buồn nôn lắm sao?”

    Tôi ngồi tựa người trên ghế, cất tiếng cười lạnh lùng mà thê lương. “Có người còn khiến ta buồn nôn hơn nhiều.” Tôi đưa mắt nhìn hắn. “Ta không ngờ lại bị vẻ ngụy trang của ả lừa gạt, thật ngu xuẩn quá chừng!”

    Hắn vội nói: “Nếu tâm kế của An thị quả thực sâu xa như thế, liệu có ai nhìn thấu được đây, đâu phải chỉ có mình nương nương bị ả lừa gạt!”

    Tôi uể oải đứng dậy, ánh dương bên ngoài cửa sổ thật rạng rỡ và nóng nực biết bao, rải xuống đất một mảng sáng lòa khiến tôi choáng váng. Tôi cố hết sức nhẫn nhịn, hỏi Ôn Thực Sơ: “Chuyện này My tỷ tỷ có biết không?”

    Hắn dè dặt lắc đầu. “Vi thần không dám tùy tiện nói bừa.”

    Tôi khẽ gật đầu, tỏ ý vừa lòng. “Chuyện này nhất định đừng để tỷ ấy biết, bằng không với tính cách của tỷ ấy sao có thể nhẫn nhịn được. Nếu kẻ chủ mưu thật sự là An Phương nghi, tâm kế của ả ắt hết sức thâm trầm, My tỷ tỷ khó có cách nào chống đỡ nổi. Huống chi, bây giờ bản cung đang thất thế, tỷ ấy lại càng thế đơn lực bạc.”

    Ôn Thực Sơ gật đầu một cái thật mạnh. Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Xin đại nhân hãy chuyển lời tới My tỷ tỷ, bất kể thế nào cũng đừng đắc tội với Hoàng hậu và An Phương nghi.” Tôi khẽ xua tay một cái. “Đại nhân về đi, bản cung hơi mệt rồi!”

    Hoán Bích vội đỡ tôi vào nội điện nằm nghỉ, căng thẳng nói: “Nếu An Phương nghi có liên quan tới việc nương nương sẩy thai ngày trước, sao nương nương không để Thẩm Tiệp dư biết việc này mà tùy cơ hành sự, lại cứ giấu giếm làm gì?”

    Tôi nằm trên giường, mồ hôi rỉ ra ướt đẫm tóc mai, chậm rãi phe phẩy quạt, nói: “Trong tình hình bây giờ, ta chỉ có thể để My Trang tự bảo vệ mình, lỡ như bị ta làm liên lụy thì biết phải làm sao đây? Nếu để tỷ ấy tùy cơ hành sự, há chẳng phải là đưa tỷ ấy vào con đường chết?”

    Hoán Bích đỏ bừng hai má, nói: “Nô tỳ chỉ lo lắng cho nương nương thôi.”

    Tôi nói: “Muội ra ngoài đi, để ta yên lặng nghỉ ngơi một lát.” Hoán Bích vâng lời ra ngoài, tôi một mình nằm đó, trái tim nóng như lửa đốt. Tình cảm giữa tôi và Lăng Dung tất nhiên không thể so được với My Trang, nhưng xưa nay cũng luôn thân mật, dù rằng trong sự thân mật vẫn còn mấy phần xa cách nhưng tôi cũng chưa từng làm việc gì có lỗi với nàng ta kia mà!

    Sự đáng sợ của lòng người chẳng lẽ lại tới mức này sao? Tôi khẽ phe phẩy chiếc quạt, bàn tay hơi run rẩy. Lăng Dung, Lăng Dung, đầu óc tôi trở nên bùng nhùng, rối loạn, nghĩ về mối tư tình quạ lạnh, về Kim lũ y, rồi về việc sau khi tôi thất sủng, nàng ta nghe theo sự chỉ dẫn của Hoàng hậu cất tiếng ca vang mà được sủng ái trở lại, sau đó lại để ý đến việc Huyền Lăng sủng ái ai hơn. Sau đó, tôi nghĩ đến bộ dạng ân cần của Hoàng hậu khi khuyên tôi dùng Thư ngân giao để chữa trị vết thương trên mặt, bao nhiêu manh mối và những nghi ngờ trước đó đồng loạt hiện lên, được tôi xuyên suốt nối thành một dải.

    Những sự việc nhỏ nhặt mà tôi cố tình bỏ qua hoặc không suy nghĩ đến cũng ùn ùn lóe hiện, ghép thành một bức tranh tàn khốc trước mặt tôi.

    Hoàng hậu và Lăng Dung, mối quan hệ giữa bọn họ rốt cuộc như thế nào? Hoàng hậu mà tôi từng ngỡ là đoan trang, hiền thục, thì ra vẫn luôn ngấm ngầm bày mưu tính kế sau lưng tôi, hơn nữa còn mượn tay Lăng Dung, Hoa Phi chẳng qua chỉ là một kẻ chịu tội thay mà thôi.

    Tôi căm hận đến nỗi cơ hồ muốn hộc máu, chợt nghe “cạch” một tiếng, cây quạt tròn trong tay đã bị bẻ gãy làm hai nửa.

    Ngủ một mình giữa đêm thanh vắng, tiết trời nóng nực khiến tôi trằn trọc không yên, nhưng không dám bỏ chăn sợ bị cảm lạnh. Dưới sự đè nén của những mối tâm sự trùng trùng, tôi rốt cuộc đã trở dậy, đi chân trần lặng lẽ đến hành lang ở sau điện. Qua ô cửa sổ có lớp rèm bị gió thổi tung, tôi nhìn thấy Hoán Bích đang gục đầu xuống bàn ngủ say. Sau khi Lưu Chu qua đời, Hoán Bích lo hầu hạ tôi mọi việc, lại phải thức trông chừng tôi khát nước hay bị chuột rút lúc nửa đêm, tất nhiên vô cùng mỏi mệt.

    Trên dãy hành lang, ánh trăng bị những lùm cây hoặc thưa hoặc rậm che khuất một phần, tạo thành những mảng sáng muôn hình vạn trạng. Hoa lê sớm đã lụi tàn, kết thành không ít quả lê xanh trên cây, tựa như nắm tay của những đứa bé. Giữa làn gió đêm hiu hắt, hương hoa thoang thoảng tràn vào bên trong chiếc áo ngủ mỏng manh của tôi. Có thai được năm tháng, cái bụng của tôi đã nhô lên rất rõ ràng.

    Còn nhớ lần đầu có thai, tôi cũng từng đứng dưới gốc lê thế này, những bông hoa lê nở trắng như tuyết, tỏa ra mùi hương thanh tân dễ chịu, tình cảm mặn nồng với Huyền Lăng khi đó giống như một giấc mộng xuân nơi khuê các, thăm thẳm xa xôi, đã đi rồi là không bao giờ có thể quay trở lại.

    Tôi của bây giờ mang thai thực vất vả biết bao, lúc nào cũng chìm trong những nỗi sợ hãi, chẳng biết nơi đâu mới là điểm tận cùng.

    Gió thổi tới khiến mái tóc dài của tôi tung bay nhè nhẹ, khẽ phớt lên gò má ngày một hốc hác, phía đằng xa loáng thoáng vang lên tiếng kêu của một loài côn trùng nào đó, khiến tôi bỗng thấy bi thương, nghẹn ngào bật khóc. Nhưng dù đang khóc, tôi vẫn hết sức kìm nén tiếng khóc của mình, để nó từ từ tan đi trong gió.

    Từ phía sau lưng, một đôi tay khoác một chiếc áo lên người tôi, tôi quay lại, thấy là Cận Tịch. Nàng ta ân cần nói: “Nương nương đi chân trần ra đây, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh.”

    Nàng ta còn mang theo một đôi giày lụa mềm mại, sau khi đỡ tôi ngồi xuống liền cẩn thận đi vào cho tôi. Làm bộ như không nhìn thấy những giọt nước mắt và nỗi căm hận của tôi, Cận Tịch chậm rãi nói: “Đáng lẽ nương nương nên cảm thấy vui mới đúng.”

    Tôi nghi hoặc. “Vui mừng ư?”

    “Nương nương đã mấy bận nghi ngờ dụng tâm của An tiểu chủ, nếu trước đây nàng ta là tên bắn lén, vậy bây giờ đã trở thành giáo đâm thẳng mặt rồi, như thế chẳng phải nương nương càng dễ đề phòng hơn sao? Hiện giờ nương nương đang ở chỗ sáng, kẻ địch ở chỗ tối, bớt được người nào thì tốt người đó.” Nàng ta khẽ cất tiếng hỏi tôi: “Có phải nương nương đau lòng vì tình nghĩa tỷ muội ngày xưa không?”

    Tôi vốn định gật đầu nhưng rồi lại cười lạnh, nói: “Chuyện đã đến nước này rồi, ả với ta còn có cái gì gọi là ‘tình nghĩa tỷ muội’ nữa?”

    Cận Tịch nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh tôi, khẽ nở nụ cười, nói: “Tình cảm giữa nương nương và Thẩm Tiệp dư quả là hiếm có, nhưng cũng chính vì nó hiếm có nên không cần thiết phải hy vọng rằng ai ai cũng như vậy.”

    Tôi nói với giọng ngợp nỗi bi thương: “Ta thực không hiểu nổi tại sao Lăng Dung lại đối xử với ta như vậy.”
    Cận Tịch cười, nói: “Nương nương không cần phải hiểu, vì một khi đã hiểu rồi, nhất định đó sẽ là một chân tướng cực kỳ xấu xí. Nương nương quả thực đã đối xử với An Phương nghi rất tốt, nhưng trong chốn hậu cung này, không phải nương nương đối tốt với nàng thì nàng ta sẽ đối tốt với nương nương.”

    Tôi biết, hiện giờ tôi không hề có cơ hội phản kích, dù có căm hận đến mấy, tôi cũng nhất định phải nhẫn nhịn.

    Tôi vén mấy sợi tóc rối trước trán lên. “Ngươi nói không sai, tốt hay xấu đều do lợi ích của bản thân quyết định. Ta cũng từng hoài nghi ả bị người ta xúi bẩy, nhưng bất kể có phải bản thân ả muốn làm vậy hay không, ả quả thực cũng đã làm.” Tôi nắm lấy bàn tay Cận Tịch, nói với giọng cảm kích: “Cận Tịch, ngươi lúc nào cũng giúp ta kịp thời tỉnh ngộ.”

    Nàng ta thoáng có chút thẹn thùng rồi rất nhanh đã thản nhiên nói: “Nô tỳ từ nhỏ đã sống trong chốn thâm cung, bây giờ cũng ba mươi tuổi rồi, tất nhiên không phải hạng trẻ người non dạ, chưa từng trải chuyện đời.” Thoáng dừng lại, nàng ta nói tiếp với giọng ôn tồn mà kiên định: “Sau lưng An Phương nghi có lẽ còn có người giật dây, nhưng bất kể thế nào, nếu lúc này nương nương vì nàng ta mà tự làm tổn hại tới thân thể mình thì thực không đáng, xin nương nương chú ý giữ gìn.” Sau đó lại có chút thổn thức. “Kỳ thực việc này cũng không sao hết, nương nương trọng tình nghĩa nên mới thương tâm, ở trong cung dù là chị em ruột cũng có ngày trở mặt, huống chi hai người còn chẳng phải họ hà thân thích.”

    Nghe nàng ta nói vậy, tôi bất giác thấy thư thái hơn nhiều, không nói gì thêm, chỉ tự an ủi bản thân, yên tâm đi ngủ.

    Khi tôi mang thai được sáu tháng cũng là lúc trời nóng nhất. Tôi vốn không chịu được cái nóng, do đang mang thai nên không thể ăn đồ lạnh, thành ra lại càng cảm thấy khó chịu, tính tình cũng có chút nóng nảy. Điều đáng mừng duy nhất là thai nhi trong bụng tôi ngày càng động đậy rõ ràng hơn.

    Hôm ấy tôi ngủ trưa trong điện, vì từ sau khi có thai đến giờ tôi cứ luôn ngủ không ngon, hiếm có khi nào ngủ sâu được như bây giờ, do đó mọi người đều rất vui vẻ. Vì sợ quấy nhiễu giấc ngủ của tôi, mọi người chỉ để một mình Hoán Bích ở lại bên cạnh tôi phẩy quạt hầu hạ. Trưa hôm nay trời vừa mưa, những làn gió mát rượi từ bên ngoài ô cửa sổ phía bắc không ngớt thổi vào, do đó tôi ngủ rất ngon.

    Trong cơn mơ màng, tôi cảm thấy Hoán Bích quạt rất mạnh, từng làn gió mát rượi liên tục thổi tới, do đó lại càng thoải mái. Tôi đã nằm mơ, mơ về năm tôi vừa được sủng hạnh, lúc đang ở Thái Bình hành cung, cũng là một dịp trưa hè thế này, khi ấy trời nóng, Huyền Lăng tới thăm tôi. Bao nhiêu lời lẽ yêu đương dạt dào tình cảm của y loáng thoáng vang lên bên tai, dịu dàng mà trầm ấm. Y đột nhiên cất tiếng gọi tôi: “Hoàn Hoàn, điệu Kinh hồng đó nàng múa đẹp thật!” Tôi đang ngồi trước bàn trang điểm, y vẽ lông mày hình núi xa cho tôi, động tác rất thành thạo, nhưng thực ra lông mày của tôi thích hợp với kiểu mày lá liễu hơn. Tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi, lớn tiếng hô lên: “Tứ lang! Thiếp là Hoàn Hoàn, không phải Hoàn Hoàn kia, không phải Hoàn Hoàn gì hết!” Nhưng y lại chỉ đắm đuối nhìn tôi, giọng nói thiết tha chứa đầy tình cảm: “Hoàn Hoàn, điệu Kinh hồng của nàng…”

    Đầu tôi đau như muốn nứt ra, cơ hồ muốn bật khóc thành tiếng, điệu Kinh hồng tung bay trong mê loạn, một tiếng sáo u buồn vang lên bên tai tôi, là tiếng sáo hay tiếng tiêu, tôi gần như không thể phân biệt rõ. Tiếng cười giòn tan của mẹ cất lên. “Học điệu Kinh hồng là để múa cho tình lang mà mình yêu quý xem đấy, điệu múa mà một cô gái phải khổ công luyện tập sao có thể tùy tiện để người ngoài xem được!”

    Tôi hết sức khó chịu, trong lúc mơ màng cảm thấy có một bàn tay ấm áp nhẹ nhàng đặt lên trán mình, hỏi với giọng lo lắng: “Nàng ấy thường xuyên ngủ không được ngon thế này sao?”

    Đó rõ ràng là một giọng nam, Hoán Bích khẽ cất tiếng trả lời: “Nương nương khi ngủ cứ luôn bị giật mình như vậy đấy, ăn cũng chẳng được ngon.”

    Y khẽ “ồ” một tiếng, một chiếc khăn mát rượi được đắp lên trán tôi, tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Dường như có một đôi tay đang nhẹ nhàng vuốt ve cái bụng ngày một tròn hơn của tôi, nhưng cảm giác không được rõ ràng lắm, đó là một sự tiếp xúc hết sức nhẹ nhàng.

    Tôi cảm thấy rất mệt, chỉ loáng thoáng nghe thấy y và Hoán Bích dường như đang thấp giọng trò chuyện với nhau, sau đó dần thiếp đi.

    Khi tỉnh dậy thì đã là đêm khuya, tôi cựa mình trở dậy, nói: “Bụng càng ngày càng to hơn rồi, cử động thật khó khăn quá!”

    Hoán Bích cười, nói: “Thân hình nương nương trông không có vẻ phát phì chút nào.”

    Tôi mỉm cười nói: “Vừa rồi hình như ta nghe thấy muội nói chuyện với ai đó, ai từng tới đây sao?”

    Hoán Bích nói: “Bây giờ thì còn có ai tới được chứ? Là Tiểu Doãn Tử vừa vào, thấy nương nương ngủ mà cũng đổ mồ hôi liền đắp cho nương nương một chiếc khăn lạnh.” Tôi thấy bên tay mình quả nhiên có một chiếc khăn vuông màu trắng, cũng không mấy để tâm, đang định bảo Hoán Bích lấy cho một ngụm nước thì chợt cảm thấy thành bụng hơi rung nhẹ, hình như vừa bị đá một cú. Tôi lập tức ngây người, không dám động đậy, hồi lâu sau, cảm giác đó lại lặp lại.

    Tôi mừng đến rơi nước mắt, vội kéo tay Hoán Bích, đặt lên bụng mình, giọng nói có chút lộn xộn: “Muội nghe! Muội nghe đi! Nó đang đá ta đấy!”

    Hoán Bích vứt thứ đang cầm trong tay qua một bên, mừng rỡ nói: “Thật vậy sao?” sau đó liền áp sát mặt mình vào. “Nương nương! Hình như nó đang động đậy này, hình như… hình như là đang vươn vai.”

    Dấu hiệu của sinh mệnh đã rõ ràng hết sức, tôi mừng đến nỗi chẳng biết phải nói gì. Hoán Bích nắm lấy bàn tay tôi, khuôn mặt đầy nét vui sướng và kích động. “Nương nương…” Rồi không kìm được mà rơi nước mắt.

    Tôi vội cười, nói: “Khóc cái gì chứ.” Tôi khẽ vuốt ve cái bụng đã nhô hẳn lên của mình. “Muội là dì của nó đấy, nên vui mừng mới phải.”

    Hoán Bích vừa cười vừa khóc, vẻ mừng vui lại càng thể hiện rõ ràng. “Đúng là một đứa bé ngoan, biết thương mẹ nó, do đó quãng thời gian trước nương nương dù buồn nôn nhưng cũng không nôn mửa dữ quá. Sau này nó nhất định sẽ là vị hoàng tử hiếu thuận nhất!”

    Tôi chỉ mỉm cười, khẽ nói: “Sao phải là một hoàng tử. Ta hy vọng nó là một công chúa cơ.”

    Hoán Bích khẽ kêu “úi” một tiếng, tò mò nói: “Nương nương không hy vọng là hoàng tử sao? Phải là hoàng tử thì nương nương mới có thể trở mình, nhận lại ân sủng được.”

    Tôi hờ hững lắc đầu. “Ân sủng? Ta chẳng thèm. Ta chỉ mong đứa bé này có thể bình an trưởng thành.” Tôi cúi xuống, khẽ nói: “Nếu là một công chúa thì sẽ có thể tránh khỏi cuộc chiến tranh giành ngôi báu sau này. Ngươi biết đấy, những cuộc tranh đấu trong hoàng tộc xưa nay luôn là kẻ sống người chết, quá mức tanh máu.” Tôi thoáng do dự nói tiếp: “Huống chi đứa bé này chưa chắc đã được lòng phụ hoàng của nó.”

    Hoán Bích có chút suy tư, khẽ nói: “Điều này cũng khó nói, nô tỳ chỉ mong đứa bé này được bình an thôi!”

    Tôi khẽ mỉm cười, không nói gì thêm. Kể từ khi bị cấm túc đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc như vậy. Đứa bé này đang ở trong bụng tôi, đang sống trong bụng tôi, đang trưởng thành trong bụng tôi. Lúc này đây, sự vĩ đại và hừng hực của sinh mệnh cuồn cuộn tràn vào trái tim đang ngợp trong mỏi mệt và bi ai, thù hận của tôi, tất cả tâm trạng tiêu cực nhanh chóng tan biến hết, chỉ có sinh mệnh nhỏ bé kia mới là nơi tôi thác gửi mọi niềm yêu thương và hy vọng.

    Sang thu, thân thể tôi lại càng nặng nề, vướng víu. Độ này trời nắng đẹp, mỗi ngày Phương Nhược đều đến đưa tôi đi dạo trong Thượng Lâm uyển một canh giờ để tiện cho việc sinh nở. Phương Nhược hiển nhiên đã được người ta dặn dò, rất ít khi nói với tôi về chuyện bên ngoài, thỉnh thoảng thấy tôi đi đã mệt thì cũng chỉ lẳng lặng dắt tôi tới ngồi xuống nghỉ ngơi, không nói gì nhiều, nhưng sự quan tâm và xót xa trong mắt lại không cách nào giấu được.

    Việc đi lại của tôi ngày một trở nên nặng nề và khó khăn hơn, thường xuyên phải có người dìu đỡ, thân thể thì gầy guộc và nhợt nhạt, duy có phần bụng là tròn vo, nhô hẳn lên, nhìn từ xa tới chỉ thấy được mỗi cái bụng. Phương Nhược cô cô ngó quanh, thấy bốn phía không có ai liền thấp giọng cảm thán: “Nếu sớm biết có mối tai họa ngày hôm nay, khi đó nô tỳ đã không dụng tâm chỉ dạy nương nương rồi, như thế nương nương cũng bớt phải chịu khổ.”

    Tôi nhìn bầu trời xa xăm, thấy một đàn chim nhạn đang bay về phương Nam, bốn phía xung quanh những bức tường đỏ cao vút của Tử Áo Thành là một khoảng trời xanh biếc, không một gợn mây, dường như vĩnh viễn thuần khiết như thế. Tôi khẽ mỉm cười, trái tim hết sức bình lặng, thời tiết thế này thật rất giống với hôm tôi mới vào cung, tôi của khi đó ôm một tâm trạng thấp thỏm bất an về tương lai phía trước, hệt như tôi của bây giờ, cũng không biết con đường trước mặt sẽ đưa mình đi tới đâu. Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Cô cô và bản cung đều không phải thánh nhân, làm sao biết ngày sau sẽ xảy ra chuyện gì. Bất kể khi nào, chúng ta cũng chỉ có thể để tâm tới chuyện trước mắt mà thôi.”

    Phương Nhược không biết phải trả lời ra sao, sau khi im lặng một thoáng liền nói: “Kỳ thực Hoàng thượng rất quan tâm tới nương nương đấy!”

    “Vậy sao?” Tôi hơi nhếch khóe môi, coi như cười mỉm. “Là quan tâm tới bản cung hay đứa bé trong bụng bản cung?” Ánh nắng mùa thu ấm áp tựa bông hoa sen đang nở rộ trên người tôi, tôi hơi nheo mắt, nói tiếp: “Nếu cô cô nói lời này với mấy vị quý nhân mới, chắc bọn họ sẽ thấy vui mừng hơn bản cung nhiều.”

    Phương Nhược muốn nói gì đó nhưng lại thôi, cuối cùng chỉ im lặng.

    Phía đằng xa có tiếng cười của nữ tử vang lại, chính là mấy vị quý nhân năm ngoái mới vào cung. Kỳ Quý nhân đã được tấn phong làm Kỳ Tần, Thụy Quý nhân cũng được làm Thụy Tần, hiện giờ khá được Huyền Lăng sủng ái, Phúc Quý nhân và Tường Quý nhân thì kém bề ân sủng, vẫn chưa được tấn phong. Nhìn thấy tôi, Kỳ Tần khom người hành lễ từ xa, Tường Quý nhân thì có vẻ không bằng lòng lắm, kéo tay áo Kỳ Tần, khẽ làu bàu: “Hoàng thượng chỉ cho nàng ta đãi ngộ bậc tần, cũng giống như Kỳ tỷ tỷ thôi, tỷ hà tất phải hành đại lễ với nàng ta như thế?”

    Kỳ Tần không tỏ vẻ gì, Thụy Tần xưa nay luôn thoát tục, sau khi hành lễ chỉ khẽ mỉm cười với tôi, không để ý gì đến lời của Tường Quý nhân. Phúc Quý nhân đứng bên cạnh hơi cau mày với Tường Quý nhân, tỏ ý bảo nàng ta im lặng, sau đó khẽ cười với tôi coi như chào hỏi. Nhưng Tường Quý nhân chẳng thèm để ý tới nàng ta, một mình cất bước rời đi trước.

    Tôi coi như chẳng nghe thấy lời của Tường Quý nhân. Phương Nhược thấy bọn họ đã đi xa, liền cười, nói: “Phúc Quý nhân quả là một người hiền lành.”

    Tiểu cung nữ bưng khay hoa quả đi theo bên cạnh Phương Nhược không kìm được cất tiếng nói chen vào: “Còn chẳng phải thế sao, nghe nói Tường Quý nhân dám mời Hoàng thượng đi từ trong cung của Phúc Quý nhân nữa, hại Phúc Quý nhân ba tháng liền không được gặp Hoàng thượng. Nhưng kể cũng lạ, Phúc Quý nhân vẫn ngày ngày tươi cười vui vẻ, không hề tỏ ra khó chịu.”

    Phương Nhược giận dữ trừng mắt nhìn tiểu cung nữ đó. “Chuyện của Quý nhân mà ngươi cũng dám tùy tiện bàn luận sau lưng sao? Mau lui xuống, sau này không được tới đây hầu hạ nữa.”

    Tiểu cung nữ đó mặt đầy vẻ ấm ức, nhưng chỉ trề môi không dám khóc. Tôi mỉm cười, nói: “Phương Nhược cô cô cũng cẩn thận quá rồi, lời của thị, bản cung chỉ coi là chuyện cười để nghe mà thôi.”

    Giọng nói của Phương Nhược hòa hoãn hơn một chút: “Nương nương đang có thai, thật không nên nghe những lời không hay đó.”

    Tôi chỉ nói: “Có thai hay không thì chuyện cũng đã xảy ra rồi, còn sợ phải nghe sao?”

    Hồ Thái Dịch lúc này trong veo, xanh biếc, giữa những gợn sóng lăn tăn là vô số bóng mặt trời bé nhỏ, khiến người ta cảm thấy vừa rực rỡ vừa hư ảo. Ngồi lâu, tôi cảm thấy thân thể hơi lạnh, bèn chống tay đứng dậy. “Đi đâu đó tản bộ một chút thôi, ngồi lâu rồi, ta thấy hơi lạnh.” Phương Nhược vâng lời, cùng Hoán Bích mỗi người một bên đỡ lấy tôi.

    Tôi rất muốn đi thăm My Trang nhưng mỗi lần Phương Nhược đều để ý cẩn thận, thành ra chẳng thể. Mà cứ mỗi khi My Trang đến gần tôi trong phạm vi ba trượng, Phương Nhược đều hòa nhã mời tỷ ấy tránh đi. Tuy rằng hòa nhã nhưng lại có ý chỉ của Huyền Lăng, do đó My Trang chỉ có thể đứng từ xa nhìn tôi trong chốc lát, sau đó liền xoay người rời đi.

    Tôi chậm rãi bước đi dọc theo bờ hồ Thái Dịch, trời thu như vẽ, lá sen nhô cao, còn chưa có vẻ gì là sẽ tàn. Thượng Lâm uyển luôn đẹp đẽ như vậy, mùa xuân tươi mới, mùa hạ tưng bừng, mùa thu đậm hương hoa, đến cả mùa đông cũng được điểm xuyết bằng vô số bông hoa giả làm từ lụa là gấm vóc, hệt như những nữ tử xinh đẹp trong cung, nhóm này già rồi thì lại có nhóm mới vào, bờ môi thắm tươi, đôi má mịn màng bóng bẩy, ánh mắt đung đưa, thân hình yểu điệu, tựa như những bông hoa xuân chẳng bao giờ nở hết. Nhớ thuở xưa, tôi cũng từng là một bông hoa diễm lệ nhất trong Thượng Lâm uyển này.

    Chiếc đu tôi từng ngồi ngày đó vẫn còn đây, chỉ là dây tử đằng và cỏ đỗ nhược trên dây đu sớm đã khô héo, chỉ còn lại những sợi vàng vọt, mà chiếc đu cũng trống trải và phủ đầy bụi, hình như đã lâu lắm rồi chưa có người dùng, còn cây hạnh vốn nở hoa rực rỡ ngay gần đó lúc này cũng đã úa vàng. Tôi thoáng ngây người trong khoảnh khắc, dường như những ngày tháng xưa cũ đó vẫn còn đây, tôi ngẫu nhiên ngoảnh đầu lại, nhìn thấy thân thể cao lớn của Huyền Lăng. Tất cả mọi việc, tôi đều không thể tránh khỏi, và cứ thế bắt đầu một cách đẹp đẽ. Tôi vẫn loáng thoáng nhớ được lời của bản thân năm xưa: “Hoa hạnh tuy đẹp nhưng lại kết ra quả hạnh rất chua, hạt lại đắng chát. Nếu con người sống trên đời cũng như vậy, mở đầu đẹp đẽ nhưng kết cục lại thảm thương, vậy thì còn ý nghĩa gì nữa? Chẳng được như tùng bách, quanh năm xanh tươi, tuy không hoa chẳng quả nhưng vẫn tốt hơn nhiều.”

    Quả đúng là nói chơi mà cuối cùng thành thật, đang lúc tôi ngơ ngẩn, Hoán Bích nhắc nhở: “Nương nương nên về rồi. Nhà bếp đã làm xong món hạnh hầm chim ngói, ăn vào lúc này là bổ nhất đấy!”

    Tôi nghe thấy thế thì bất giác gượng cười một tiếng. “Hạnh hầm chim ngói? Hoa hạnh nếu đã nở rồi thì thôi hãy bỏ đi.”

    Hoán Bích thoáng suy nghĩ, lập tức hiểu ra, khuôn mặt bất giác đỏ bừng. Tôi thấy Hoán Bích có vẻ lúng túng liền nói: “Đúng lúc ta đang đói, chúng ta cùng về đi!”

    Vừa định đứng dậy, tôi bỗng thấy Huyền Thanh dẫn theo mấy tên thái giám đang đi tới từ phía trước, bèn thỉnh an: “Vương gia an hảo!” Huyền Lăng chắc chưa dặn dò Phương Nhược việc nếu gặp hoàng thân quốc thích thì có cần ngăn cản hay không, thành ra Phương Nhược nhất thời không kịp phản ứng, để cho Huyền Thanh bước tới gần, cất tiếng chào tôi: “Lâu lắm không gặp Quý tần rồi!” Khi nhìn về phía bụng tôi, trong mắt y thoáng qua một tia mừng rỡ và bất lực, ất nhanh đã nói: “Tiểu vương còn chưa kịp chúc mừng Quý tần, xin có lời tại đây.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Vương gia khách sáo rồi!” Dừng một chút lại hỏi: “Vương gia chuẩn bị đi thỉnh an Thái hậu sao?”

    “Ta vừa từ chỗ hoàng huynh tới đây, đang định đi thăm Thái hậu.” Trên mặt y xuất hiện một nét cười hiền hòa. “Đến đây vội quá, ta chưa kịp chuẩn bị quà mừng cho Quý tần.”

    Tôi cười, nói: “Đa tạ vương gia!” Ánh mắt vô tình lướt qua cây sáo mà y đeo bên hông, tôi tiện miệng nói: “Đã lâu rồi không được nghe tiếng nhạc, bản cung cảm thấy mồm miệng nhạt nhẽo, chẳng có chút hứng thú ăn uống.”

    Y hiểu ý, nói: “Nương nương thích nghe bài gì? Bản vương xin được dùng tiếng nhạc làm quà mừng.”

    “Hạnh hoa thiên ảnh[3].” Tôi buột miệng nói, ngay sau đó lập tức hối hận. Khúc nhạc này tôi từng thổi trong lần đầu gặp Huyền Lăng, bây giờ nghe lại, làm gì còn chút ý nghĩa nào nữa.

    [3] Tên một điệu từ, do Khương Quỳ người thời Tống sáng tác.

    Huyền Thanh cúi xuống, lấy cây sáo ra đưa lên bên môi, chậm rãi cất tiếng thổi. Tôi lùi về phía sau hai bước, lặng lẽ lắng nghe. Hồi đó, tôi còn ít tuổi, chỉ cảm thấy khúc nhạc này rất hay, nhưng cái thâm ý bên trong thì lại không hiểu rõ hoàn toàn. Đợi đến bây giờ hiểu rõ, tôi mới hay bên trong khúc nhạc là một nỗi sầu mênh mang, cảnh đẹp thương không dài, nỗi bi thương ngợp khắp nơi nơi.

    Vẻ mặt Huyền Thanh nghiêm túc mà chăm chú, tôi dường như đã từng nhìn thấy ở đâu rồi. Ánh mắt tôi lướt qua khuôn mặt y, lần đầu tiên nổi lên một suy nghĩ thế này, người mà tôi vừa ý rốt cuộc là Huyền Lăng trong địa vị của kẻ đế vương, hay là nam tử nho nhã đi ra từ giữa những bông hoa hạnh lất phất bay đầy trời kia?

    Khúc nhạc còn chưa hết, tôi đã khẽ cất tiếng cắt ngang: “Vương gia chắc đang nôn nóng đi thỉnh an Thái hậu, bản cung không làm phiền nữa. Mời Vương gia!”

    Trong mắt y lóe lên một tia sáng kỳ dị, dường như ẩn đầy nỗi xót thương. “Mời Quý tần!” Y tỏ vẻ vô tình nói với gã thái giám bên cạnh: “Nghe nói sau khi vào thu, Thái hậu ăn gì cũng chẳng thấy ngon, trong phủ bản vương thường dùng ngân nhĩ và cẩu kỷ hầm thành canh tẩm bổ, đợi lát nữa sẽ sai người về vương phủ lấy một ít đưa tới đây.” Y thể hiện vẻ quan tâm một cách kín đáo vô cùng, tôi chỉ hờ hững đứng nhìn từ xa.

    Gã thái giám kia vội cười, nói: “Vương gia không cần phải như vậy đâu, lát nữa cứ bảo phủ Nội vụ chọn loại thượng hảo đưa tới cho Thái hậu là được mà.”

    Một gã thái giám khác nói: “Đó là lòng hiếu thảo của Vương gia đối với Thái hậu, những thứ trong phủ Nội vụ có thể so bì được sao?”

    Huyền Thanh khẽ mỉm cười, cuối cùng chỉ nói: “Quý tần xin hãy bảo trọng!” Sau đó liền vội vã rời đi.

    Về đến Đường Lê cung, tôi nằm trên giường nghỉ ngơi. Hoán Bích ngồi bên cạnh phẩy quạt cho tôi. “Không biết có phải nô tỳ cả nghĩ không, vừa rồi cứ luôn cảm thấy bộ dạng của Kỳ Tần tiểu chủ có vẻ hơi cổ quái.”

    Tôi ngồi dậy, một tay chống cằm, một tay lật xem những bộ quần áo nhỏ mà các cung nhân chuẩn bị cho đứa bé sắp ra đời, khẽ “ồ” một tiếng, hỏi: “Tức là sao?”

    Hoán Bích nghiêm túc suy nghĩ một chút rồi đáp: “Đây chỉ là sự nghi ngờ của nô tỳ thôi. Mùa đông năm ngoái, khi công tử vào cung từng nhắc đến việc nhị ca Quản Khê của Kỳ tần tiểu chủ sẽ cưới nhị tiểu thư vào dịp Trùng Dương năm nay, tại sao bây giờ đã là tháng Tám rồi mà vẫn chẳng có chút động tĩnh nào?”

    Tôi không để ý lắm, chỉ thầm nghĩ nếu cái thai lần trước của tôi thật sự bị Hoàng hậu và Lăng Dung làm hại, vậy tại sao lần này lại chẳng có chút động tĩnh nào như thế, dù rằng tôi đã xin Huyền Lăng hạ chỉ cho Hoàng hậu phụ trách việc sinh nở của tôi. Tôi chỉ khẽ cười tự giễu: “Bây giờ ta đã thành ra thế này rồi, người ta sao còn dám tùy tiện làm thân nữa.” Dừng một chút, tôi nói tiếp: “Ai biết bây giờ người nhà họ Quản đang có suy nghĩ thế nào, một mối hôn sự như vậy, Ngọc Diêu chẳng cần cũng được.”

    Hoán Bích khẽ gật đầu, bất bình nói: “Nương nương chẳng qua chỉ nhất thời thất thế, dù gì cũng đã mang thai cốt nhục của Hoàng thượng, bọn họ sao lại như vậy chứ?”

    Tôi mỉm cười, phủi nhẹ ống tay áo, nói: “Thói đời nóng lạnh, muội không phải mới thấy lần đầu, việc gì phải tức giận như vậy chứ. Giúp ta cất chỗ quần áo này đi nào.”

    Hoán Bích vâng lời làm theo, lát sau đã quay trở lại, trên tay bưng một chiếc bát sứ, thì ra là canh ngân nhĩ với cẩu kỷ. Nàng ta cười, nói: “Canh chim ngói hồi nãy nương nương không thích ăn, chi bằng hãy nếm thử cái này đi. Nô tỳ vừa bảo nhà bếp làm đấy.”

    Tôi hỏi: “Đang yên đang lành làm món này làm gì?”

    Hoán Bích mím môi cười, đáp: “Vừa rồi Vương gia đặc biệt dặn dò thứ này có thể kích thích việc ăn uống, nô tỳ sao dám không để tâm.”

    Tôi lòng đã hiểu rõ nhưng vẫn cố ý vẻ ngạc nhiên. “Ồ? Sao ta không biết Vương gia từng dặn dò muội nhỉ?”

    Hoán Bích nôn nóng nói: “Vương gia đang yên đang lành lại nhắc đến việc Thái hậu ăn không ngon miệng, hơn nữa còn ở ngay trước mặt chúng ta, mà vừa trước đó nương nương có nói mình mồm miệng nhạt nhẽo, ý tứ của Vương gia rõ ràng thế rồi mà.”

    Tôi mỉm cười trêu chọc: “Úi chà, sao lời của Vương gia lọt vào tai muội lại trở nên rõ ràng như vậy?”

    Hoán Bích thẹn thùng đỏ bừng hai má, xoay người nói: “Người khác tất nhiên là không biết, nhưng nô tỳ thì hiểu rõ Vương gia quan tâm đến cung của chúng ta không phải mới ngày một ngày hai, nương nương hà tất phải trêu chọc nô tỳ làm gì.”

    Tôi cười, nói: “Được rồi, được rồi, muội đã có lòng như vậy, ta ăn là được.”
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 21: Hỡi ôi khoảnh khắc buồn thương đầy lòng
    Tôi dồn mọi sự kiên nhẫn vào việc chờ mong đứa bé sắp ra đời kia, trong lòng thậm chí còn cảm thấy có chút may mắn, sự thất sủng bây giờ vừa hay giúp tôi có thể tránh khỏi những sự tranh đấu khi mang thai, được sống một cuộc sống bình yên tạm thời.

    Ngày tết Trùng Dương, theo lệ thường, các phi tần trong cung đều phải đi vấn an Thái hậu, tôi hiện đang bị cấm túc, tất nhiên không thể đi được, liền chuẩn bị bánh ngọt và rượu hoa cúc bỏ vào trong một chiếc giỏ đựng đầy cành thù du đưa cho Phương Nhược, nhờ dâng lên Thái hậu giúp tôi, chúc Thái hậu thân thể an khang, an hưởng tuổi già.

    Tối đến, Thái hậu sai Tôn cô cô đích thân tới thăm tôi, sau khi nhẹ nhàng an ủi mấy câu bèn nói: “Nương nương bây giờ đang có thai, quả thực đã phải chịu ấm ức rồi. Nếu có chỗ nào không tiện thì cứ bảo Phương Nhược nói với nô tỳ, nô tỳ sẽ dốc lòng dốc sức giúp đỡ nương nương.”

    Tôi hòa nhã nói: “Cũng không có gì, có điều hôm nay là tết Trùng Dương, vẫn hay huynh đệ lên cao đấy, đều cắm thù du thiếu một người[1], bản cung có chút nhớ người nhà mà thôi!”

    [1] Trích Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ, tác giả Vương Duy, dịch thơ Đông A.

    Tôn cô cô thoáng ngây ra, ngay sau đó lập tức mỉm cười, khẽ nói: “Quy củ trong cung là khi phi tần có thai được tám tháng, mẹ đẻ sẽ được vào cung bầu bạn, chờ sinh nở. Tính toán thời gian thì bây giờ nương nương có thai cũng được bảy tháng rồi, nô tỳ sẽ nhắc người của phủ Nội vụ an bài cho mẫu thân và tẩu tẩu của nương nương là Bình Xương quận phu nhân và Tân Bình huyện quân vào cung.” Nghe vậy, tôi cảm thấy thư thái hơn nhiều, bởi biết được người nhà không vì tôi thất sủng mà bị liên lụy.

    11

    Đến cuối tháng Chín, tôi một lòng mong ngóng ngày mẫu thân và tẩu tẩu có thể vào cung bầu bạn với mình, nhưng phía bên phủ Nội vụ lại chẳng có chút tin tức nào. Tôi không khỏi cảm thấy nôn nóng, bèn hỏi Phương Nhược, nàng ta lại cứ ấp a ấp úng, phủ Nội vụ thì cũng thoái thác không chịu trả lời. Đúng lúc này, Lý Trường lại tới chuyển lời, nói gần đây trời lạnh, bảo tôi không cần phải ra ngoài tản bộ nữa, kẻo lại nhiễm phong hàn. Mà đám thị vệ canh gác bên ngoài Đường Lê cung cũng càng tỏ ra nghiêm khắc hơn. Tuy không biết đã xảy ra chuyện gì nhưng tôi cũng cảm thấy sự việc có vẻ không bình thường. Hết cách, tôi chỉ đành lựa dịp một gã tiểu thái giám của phủ Nội vụ đưa đồ tới mà gọi hắn lại.

    Gã tiểu thái giám đó hiển nhiên là vừa mới tới, khuôn mặt nhìn rất xa lạ. Tôi lúc này đang ngồi đối diện với Hoán Bích, khâu một chiếc chăn nhỏ cho trẻ con đắp sau khi sinh, bên trên thêu hoa văn hết sức sặc sỡ, bắt mắt.

    Gã tiểu thái giám đó quỳ trên mặt đất, tôi ôn tồn hỏi: “Ngươi tên là gì? Sao lúc trước ta chưa từng gặp?”

    Hắn dập đầu một cái, có chút rụt rè thưa: “Nô tài là Tiểu Quý Tử, vừa mới vào phủ Nội vụ chưa lâu, vốn hôm nay phải là Hoàng đại ca đưa đồ nhưng huynh ấy lại đột nhiên đau bụng, do đó mới đổi thành nô tài đưa đồ đến cho nương nương.”

    Hoán Bích thấy tôi nháy mắt ra hiệu, vội đỡ hắn dậy, ân cần nói: “Ngươi vất vả rồi, chỗ bạc vụn này là nương nương nhà ta thưởng cho ngươi đi uống trà.”

    Tiểu Quý Tử hết sức mừng rỡ, vội vàng khấu đầu tạ ơn. Tôi cười tủm tỉm, nói: “Chút bạc này không tính là gì, đợi khi người nhà của bản cung vào cung, bản cung sẽ thưởng thêm cho ngươi thật hậu.”

    Hắn có chút nghi hoặc, ngẩng đầu nói: “Tạ ơn nương nương ban thưởng. Nhưng gần đây nô tài không nghe các vị công công nói có vị mệnh phụ nhà nào sắp vào cung, nếu người nhà của nương nương tới, nô tài nhất định sẽ thông báo thật sớm.”

    Tôi không khỏi cảm thấy nghi hoặc và lo lắng, nhưng ngoài mặt vẫn không thể hiện ra, tươi cười nói: “Phải rồi, trước đây ngươi làm việc ở đâu vậy?”

    Hắn đáp: “Nô tài cũng là người của phủ Nội vụ, có điều trước đây chỉ chuyên đưa trà đưa nước cho các thị vệ giữ cửa bên ngoài thôi.”

    Tôi thầm mừng rỡ, từ chỗ đám thị vệ giữ cửa bên ngoài nhất định có thể nghe ngóng được rất nhiều tin tức, bèn nói: “Bản cung vốn là con gái nhà họ Tăng, chẳng phải gia đình hiển hách gì, chắc người nhà khó mà vào được cung thăm nom, đâu có được như mấy vị mệnh phụ của Chân phủ, thường xuyên có thể vào cung.”

    Tiểu Quý Tử chớp mắt mấy cái, nói: “Nô tài tuy không biết Tăng đại nhân nhậm chức ở đâu, nhưng nhất định là đang bình an phú quý. Chỉ là Chân phủ ngày xưa còn phong quang, nhưng bây giờ thì khác rồi. Hai ngày trước, nô tài hay tin Thị lang Bộ binh Chân đại nhân đã bị đày vào đại lao.” Trái tim tôi đập thình thịch, sắc mặt biến đổi hẳn, nhưng hắn vẫn làu bàu nói tiếp: “Không chỉ có vậy thôi đâu, ngay đến chức Đô thống Vũ Lâm quân và Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ của y cũng mất rồi, mà chức Thượng thư bộ Lại của Chân lão đại nhân cũng không giữ được, tuổi đã cao như vậy mà còn bị giam lỏng trong nhà, đến chức phong cáo mệnh của các vị phu nhân cũng đã bị phế bỏ, còn làm liên lụy đến nhà thông gia Tiết đại nhân.”

    Giọng nói của tôi đã hơi run rẩy nhưng vẫn cố kìm nén: “Sao lại như vậy nhỉ? Chân phủ không phải đã lập được công lớn trong việc bình định Nhữ Nam Vương sao?”

    Hắn vẫn không phát hiện ra điều gì, tươi cười nói: “Nương nương không biết đó thôi, lập được công lớn không có nghĩa là sẽ mãi mãi được yên ổn, gia tộc Mộ Dung của Hoa Phi nương nương và Nhữ Nam Vương không phải là ví dụ rõ ràng nhất đó sao? Chân đại nhân đã bị người ta tố cáo rồi!”

    Tôi còn chưa kịp mở miệng, mặt Hoán Bích đã tái nhợt, đôi môi hơi run rẩy, nàng ta giành nói trước: “Là bị ai tố cáo vậy?”

    Tiểu Quý Tử thấy Hoán Bích như vậy thì rất sợ hãi, không dám nói gì thêm. Hoán Bích làm sao nhịn được, trong lúc nôn nóng liền nắm chặt lấy cánh ta hắn, quát lớn: “Mau nói đi!”

    Tiểu Quý Tử không cự lại được, đành trả lời: “Là Phó đô thống Vũ Lâm quân Quản đại nhân.”

    Hoán Bích nôn nóng nói: “Nói bậy! Nhà họ Quản không phải sắp kết thành thông gia với nhà họ Chân sao, Quản đại nhân sao lại đi tố cáo Chân đại nhân được?”

    Tiểu Quý Tử vội vàng biện bạch: “Việc trên quan trường nô tài làm sao biết được rõ ràng, có điều chuyện này từ nửa tháng trước người ta đã bàn tán xôn xao rồi, nô tài không nói bừa đâu!”

    Nửa tháng trước? Chỉ có tôi là bị giấu giếm thôi sao?

    Hoán Bích đang định nói tiếp, Tiểu Quý Tử đã viện bừa một cái cớ rồi vội vã rời đi. Tôi ngẩn ngơ ngồi xuống, cây kim trong tay đâm thẳng vào ngón tay. Hoán Bích “úi chao” một tiếng, vội vã lấy một chiếc khăn trắng ra quấn chặt lại giúp tôi, nước mắt rơi lã chã. “Nương nương, bây giờ chúng ta phải làm sao đây?”

    Tôi cố sức kìm nén không để nước mắt rơi xuống. “Được! Được lắm…” Lời còn chưa dứt, trong bụng đã truyền tới cơn đau dữ dội, khiến tôi không sao nói thành lời, cố giữ bình tĩnh bảo: “Mau đi mời Ôn thái y…”

    Ôn Thực Sơ hầu hạ tôi uống thuốc an thai xong, Cận Tịch đắp chăn cho tôi, hỏi: “Ôn đại nhân, nương nương không có vấn đề gì đáng ngại chứ?”

    Ôn Thực Sơ hơi cau mày, đáp: “Vấn đề đáng ngại là không có, chỉ là ta có mấy lời muốn hỏi nương nương.”

    Trong bụng vẫn còn cảm giác đau nhói, tôi miễn cưỡng gật đầu: “Bản cung cũng có lời muốn hỏi Ôn đại nhân.”

    Cận Tịch lẳng lặng cất bước ra ngoài, tôi thấy Hoán Bích lộ vẻ lưu luyến, biết rằng nàng ta không yên tâm, thế là bèn giữ lại. Ôn Thực Sơ nửa như trách móc nửa như quan tâm, hỏi: “Nương nương có gì mà phải kích động như vậy, đến nỗi làm ảnh hưởng tới thai khí?”

    Tôi gắng gượng ngồi dậy, nhìn thẳng vào mắt hắn. “Hôm nay có người nói với bản cung về chuyện nhà của bản cung, đại nhân ngày ngày đều có thể ra vào cung, chắc hẳn cũng biết rõ.”

    Hắn nôn nóng nói: “Nương nương đã biết hết rồi sao? Kẻ nào mà lớn mật như vậy?”

    Ta chợt bật cười. “Đại nhân quả nhiên đã biết cả. Dù bản cung không hỏi, nhất định cũng sẽ có người tìm đủ mọi cách để nói cho bản cung biết.”

    Hắn nói: “Thứ nhất là Hoàng thượng đã dặn dò, thứ hai là vi thần lo rằng nương nương không thể chịu đựng nổi sự đả kích này.”

    Tôi khẽ cười yếu ớt. “Nhưng bây giờ bản cung đã biết cả rồi, ngài còn định giấu giếm đến khi nào nữa?”

    Hắn mím chặt môi, tôi chỉ bình tĩnh nhìn hắn. Đương nhiên, đằng sau vẻ ngoài bình tĩnh ấy tâm trạng đang sục sôi như sóng cuộn. Tôi lúc này chỉ mong hắn sẽ nói với tôi rằng mọi việc đều là giả, mọi người trong nhà tôi đều bình yên, không gặp bất cứ chuyện gì bất trắc. Thế nhưng hắn lại nói: “Chân phủ đã hoàn toàn suy bại.” Hai hàm răng của tôi run rẩy, va vào nhau lách cách, y lén đưa mắt nhìn vẻ mặt tôi, muốn nói nhưng lại thôi.

    Tôi cố nén cảm giác sợ hãi trong lòng. “Bản cung không sao, đại nhân nói đi.”

    Hắn nói tiếp: “Cả gia đình mất hết tước vị, đại nhân và thiếu phu nhân đều bị giam vào đại lao, lão đại nhân và lão phu nhân cũng bị liên lụy, chỉ được ở trong nhà, tình hình giống hệt như nương nương.”

    “Giố hệt?” Nước mắt tôi tuôn rơi dào dạt. “Bản cung có thai nên mới được đãi ngộ thế này, cha mẹ của bản cung thì sao?” Hắn không trả lời. Tôi lại hỏi tiếp: “Vậy còn Trí Ninh thì sao, nó mới một tuổi, đang được người nào chăm sóc vậy?”

    Hắn lộ rõ vẻ buồn bã mà bất lực. “Tiểu công tử cũng phải ở trong nhà lao với cha mẹ.” Lòng tôi đau đớn không thôi, Trí Ninh mới chỉ là một đứa bé còn ở trong nôi, sao có thể chịu được nỗi khổ này. Ôn Thực Sơ kể hết nguồn cơn sự việc với tôi: “Quản Lộ tố cáo Chân đại nhân trong lúc bình mối loạn Nhữ Nam Vương đã chần chừ do dự, sau khi bình loạn lại nhiều lần kiêu ngạo cậy công, có ý kéo bè kết cánh với Tiết đại nhân, Quản đại nhân và Lạc đại nhân.”

    “Chần chừ do dự?” Tôi vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi. “Cớ gì mà nói vậy?”

    “Nương nương còn nhớ vị Giai Nghi cô nương kia không? Cô ta chính là nhân chứng. Cô ta nói tuy nương nương có hiềm khích với Hoa Phi nhưng Chân đại nhân vì muốn giữ lấy sự vinh hoa phú quý, từng có ý tiếp cận Nhữ Nam Vương để chuẩn bị sẵn đường lui.”

    Tôi cả giận. “Lời nói đó không bằng không cớ. Chẳng lẽ Hoàng thượng lại tin?”

    Ôn Thực Sơ nói: “Ngày đó chuyện giữa đại nhân và Giai Nghi cô nương đã lan truyền khắp kinh thành, bây giờ có cô ta đứng ra làm chứng, mọi người khó lòng không tin.” Do dự một chút, y nói tiếp: “Nhưng đây vẫn chỉ là chuyện nhỏ, chủ yếu là sau chuyện Nhữ Nam Vương, Hoàng thượng khá đề phòng các công thần, không hề trọng dụng, duy có Chân đại nhân là cá biệt, vậy nhưng bây giờ lại có lời đồn như thế, mà mối loạn Nhữ Nam Vương mới qua chưa bao lâu, do đó Hoàng thượng hết sức để bụng. Hơn nữa, Quản đại nhân và Chân đại nhân không phải chỉ mới giao hảo một, hai ngày, còn gần như đã kết thành thông gia, lại là đồng liêu…” Hắn không nói tiếp nhưng tôi thì lại biết, Huyền Lăng nhất định đã tin.

    Y vốn tính đa nghi, ngày đó ở Thủy Lục Nam Huân điện chỉ vì một câu nói của Tào Cầm Mặc mà đã nghi ngờ tôi và Huyền Thanh rồi. Sau chuyện Nhữ Nam Vương, y vẫn luôn chú ý không đặc biệt trọng dụng các công thần, mà đối với con gái của các công thần trong cung cũng không sủng ái lắm, tất cả chỉ vì tránh vết xe đổ của Hoa Phi. Lời tố cáo của Quản Lộ câu nào cũng phạm vào điều kiêng kỵ của y, lại có cả nhân chứng, y sao có thể không tin được đây.

    Còn Giai Nghi, khi xưa tôi chỉ dặn dò tẩu tẩu và ca ca hãy dùng mưu kế để mê hoặc kẻ địch, hy vọng có thể khiến đám người Nhữ Nam Vương buông lỏng sự cảnh giác với ca ca, nhưng lại chưa từng an bài việc lựa chọn loại nữ tử nào. Cô ả Giai Nghi đó, tôi tất nhiên chưa từng gặp, chỉ biết cô ta hơi giống Lăng Dung, lại biết ca ca đã an bài ổn thỏa tương lai cho cô ta rồi, còn quá trình bên trong, tôi ở trong cung tất nhiên không thể nào tường tận. Lẽ nào… Giai Nghi là do người khác cố tình an bài từ trước, đợi tới lúc này mới xuất chiêu?

    Trái tim tôi bất giác trở nên băng giá, bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình phía sau, chúng tôi lần này đã trở thành bọ ngựa trong mắt người khác rồi. Mà không chỉ có tôi và ca ca, toàn bộ nhà họ Chân đều đã bị người ta bày mưu hãm hại.

    Thật nhanh biết mấy, tất cả đều đã hoàn toàn đảo lộn, bao gồm cả sự thất sủng của tôi và sự suy bại của nhà họ Chân.

    Ôn Thực Sơ nói: “Nương nương còn đỡ, dù sao cũng không bị liên lụy, nhưng xin nương nương đừng hành động theo cảm tính. Thụy Tần tiểu chủ tâm khí cao vời, hết sức thoát tục, vì việc phụ thân là Lạc đại nhân hàm oan vào ngục mà đã tự vẫn để giãi bày, tỏ sự thanh bạch.”

    Tôi cả kinh, kỳ thực giữa tôi và Thụy Tần vốn chẳng có bao nhiêu giao tình, nàng ta vẫn luôn thanh cao rất mực, chẳng thèm tranh đua với người khác, cũng không giao hảo với ai, cư xử với mọi người đều hờ hững, tựa như một bông thủy tiên, hết sức cương liệt.

    Tôi tuy chưa từng gần gũi với nàng ta nhưng lại ôm lòng tán thưởng. Đâu ai ngờ…

    Ôn Thực Sơ thấy tôi lộ rõ vẻ quan tâm, nét tiếc thương trên mặt lại càng thêm nồng đậm. “Hoàng thượng vốn hết sức xúc động, nhưng nghe nói hôm đó An Phương nghi hầu hạ kề bên thánh giá, nghe tin Thụy Tần chết liền sợ đến nỗi bật khóc, khi nói năng dường như có ý cho rằng Thụy Tần tiểu chủ lấy cái chết để uy hiếp Hoàng thượng, Lạc đại nhân rõ ràng là có tội chẳng sai!”

    Lăng Dung! Tôi không kìm được nghiến răng nghiến lợi, Thụy Tần không có hiềm khích gì với nàng ta, hà tất phải làm như vậy?

    Sau khi Ôn Thực Sơ rời đi, tôi im lặng hồi lâu, Hoán Bích mặt đầy nét sầu ngồi bên cạnh tôi, thút thít khóc lóc.

    Tôi nói: “Khóc thì có ích gì!”

    Hoán Bích miễn cưỡng ngừng khóc, nghi hoặc hỏi: “Nương nương, tên Tiểu Quý Tử đó nói mới vào phủ Nội vụ chưa lâu, lại không biết tiểu thư họ Chân, bị chúng ta tùy tiện lừa gạt là họ Tăng cũng chịu tin, sao lại biết rõ quan chức của công tử như thế?”

    Tôi khẽ “hừ” một tiếng, bàn tay nắm chặt mép chăn. “Muội tin hắn là người mới sao? Hoàng thượng đã ‘xem trọng’ Đường Lê cung này của chúng ta như vậy, phủ Nội vụ sao có thể tùy tiện phái một tên tiểu thái giám chẳng có chút kinh nghiệm nào đến đây, rõ ràng là có người muốn miệng của hắn nói với chúng ta những tin tức này. Nếu tâm trí của ta yếu đuối hơn một chút thôi, đứa bé này e là không giữ được rồi.”

    Tất cả mọi sự oán độc sau nháy mắt đã trào dâng trong lòng, khiến tôi cảm thấy hết sức cay đắng, hồi lâu sau mới bật thốt ra được một câu: “Bọn họ thật ác độc!”

    Tôi trở mình bước xuống giường, lấy từ trong ngăn kéo ra một tờ giấy viết thư màu vàng nhạt, nhưng lại không động bút, nỗi oan khuất trong lồng ngực trào dâng, nước mắt làm ướt nhòe tờ giấy. Mang theo nỗi căm phẫn tột cùng, tôi viết xong bức thư, cẩn thận cất vào phong bao, nói với Hoán Bích: “Đợi lát nữa Phương Nhược tới, muội hãy thay ta giao thứ này cho nàng ta, nhờ nàng ta trình lên Hoàng thượng.” Rồi tôi thầm nghĩ, bây giờ chẳng phải ngày xưa, Huyền Lăng chưa chắc đã chịu tin, liền khẽ thở dài một tiếng, đặt chiếc nơ đồng tâm mà này đó y tặng tôi lên trên bức thư. “Nhớ dặn Phương Nhược, nhất định phải đưa tới nơi.”

    Hoán Bích biết việc này không thể xem nhẹ, trịnh trọng nói: “Nô tỳ hiểu rõ.”

    Tôi chỉ biết chờ đợi trong nôn nóng, nhìn vầng thái dương chầm chậm ngả về tây, ráng chiều phủ khắp đất trời, khi làn gió đêm thổi sáng những vì sao, dạ dày tôi chợt truyền tới một cơn đau dữ dội, tựa như đã uống quá nhiều rượu trong cơn khát. Sự an nguy sống chết của cả gia đình lúc này đều phụ thuộc vào việc Huyền Lăng có chịu gặp tôi hay không.

    Khi vầng trăng lên đến đầu ngọn liễu, chiếc kiệu rốt cuộc đã tới bên ngoài cửa cung. Lý Trường đích thân đi tới, cung kính nói: “Nương nương, Hoàng thượng mời người dời gót tới Nghi Nguyên điện.”

    Tôi thoáng ngẩn ra, rốt cuộc đã tới rồi, bèn nói: “Công công đợi một chút, bản cung thay xiêm y xong sẽ ra ngay.”

    Thế nhưng khi nhìn mình trong gương, tôi không khỏi thầm kinh hãi, đôi gò má đã hốc hác đi nhiều, hơn nữa còn trắng bệch, xương quai xanh nhô hẳn ra ngoài, khiến chiếc áo dài màu xanh da trời trở nên trống rỗng, ngợp một vẻ giá lạnh. Tôi thực đã gầy đi quá nhiều, duy có đôi chân là sưng húp lên, chỉ còn lại sự tiều tụy, chẳng thấy có chút gì là đẹp đẽ.

    Tôi vô cùng hoang mang, Huyền Lăng xưa nay vẫn luôn khen ngợi vẻ đẹp của tôi, giờ thấy tôi thế này, hắn sẽ sinh lòng chán ghét. Tôi bèn tô điểm một chút phấn son, nhưng phấn son hình như nổi hẳn lên trên mặt, chẳng hề chân thực. Cầm hộp son trong tay, tôi ngây ra, dù có đẹp đến mấy thì trong mắt y, tôi cũng chỉ là một cái bóng của người khác mà thôi, tôi hà tất phải cố ra vẻ kiều diễm làm gì, nét tiều tụy mới thích hợp với tình cảnh lúc này và dễ đánh động trái tim hơn.

    Thế là tôi bèn khoác lên người một chiếc áo ngoài màu tím thẫm, dùng trâm ngọc và lược vàng bới tóc lên, bám vào tay Cận Tịch vội vã bước lên kiệu.

    Quả thực đã lâu lắm rồi tôi không tới Nghi Nguyên điện, Lý Trường dẫn tôi vào Tây thất, khẽ nói: “An Phương nghi vừa mới đi, Hoàng thượng đang ở một mình trong đó đợi nương nương đấy!”

    Tôi chỉnh lại quần áo một chút, để Phương Nhược đỡ vào trong, vừa vào đến bên trong, nàng ta đã lập tức lui ra ngoài. Huyền Lăng quay lưng về phía tôi, hình như đang dụng tâm xem thứ gì đó, nghe thấy tiếng bước chân của tôi, y cũng chẳng buồn ngoảnh lại. Tôi khom người hành lễ một cách khó khăn. “Hoàng thượng kim an!”

    Sau một thoáng tĩnh lặng, y xoay người đỡ lấy tôi, trầm giọng nói: “Thân thể không tiện, không cần phải hành lễ.” Tôi tạ ơn, y lại nói: “Phương Nhược nói sau khi có thai, nàng vẫn thường hay nằm mơ, bây giờ ngủ có ngon hơn không?”

    Tôi rủ rỉ nói: “Hoàng thượng có từng tận mắt nhìn thấy thần thiếp nửa đêm nằm mơ không?” Y thoáng ngẩn ra, tôi đã nói tiếp: “Vậy mà chỉ bằng lời từ một phía của Phương Nhược, Hoàng thượng đã tin là thần thiếp ngủ không ngon rồi, không hề hỏi thái y xem đã kê An hồn tán cho thần thiếp dùng chưa, thần thiếp đã mơ thấy những gì.”

    Y hơi trầm nét mặt. “Nàng muốn nói gì?”

    Tôi vẫn thản nhiên như thường, chậm rãi nói: “Thần thiếp chỉ muốn nói, không thể nghe lời từ một phía rồi tùy tiện đưa ra định luận.”

    Y chỉ nói: “Nàng ngủ có ngon không?”

    Tôi hết cách, đành đáp: “Mấy tháng đầu quả là khó lòng ngủ nổi, bây giờ đã đỡ hơn một chút rồi!”

    Y cười hờ hững. “Vậy lời của Phương Nhược cũng không phải là sai.”

    Tôi đau đớn lắc đầu, nói: “Hoàng thượng, Phương Nhược cô cô không hề có ý lừa dối Hoàng thượng, nhưng thần tử trong triều, vì thù hằn đấu đá, không phải ai cũng có thể vô tư thành thật đâu!”

    Y đỡ tôi ngồi xuống, hòa hoãn nói: “Nàng tìm đủ mọi cách cầu kiến, vậy mà chẳng hỏi xem trẫm có khỏe không, chỉ nói những lời này thôi sao?”

    Y có khỏe không ư? Tôi hờ hững ngước mắt lên, từ sau khi bị cấm túc, tôi chưa từng gặp y lần nào, bây giờ đột nhiên gặp lại chỉ bởi vì tính mạng của gia đình tôi đều nằm trong bàn tay y, đây thực là một tình cảnh khó xử biết chừng nào.

    Trong lòng tôi nào còn chút hơi sức để nghĩ xem y có khỏe không. Nhìn y bây giờ vẫn giống hệt ngày trước, chỉ là trong mắt có thêm một tia tàn bạo, đầy vẻ lạnh lùng. Những ngày xa cách vừa qua, tôi chỉ cảm thấy ngẩn ngơ và đờ đẫn, dường như không còn nhớ nữa, nhưng khi gặp mặt, con tim lại vẫn xao động, nước mắt bất giác rơi lã chã.

    Nhìn thấy tôi rơi nước mắt, trông y có vẻ ôn hòa hơn phần nào, khẽ buông tiếng thở dài. “Tội đại bất kính với Thuần Nguyên Hoàng hậu ngày đó, nàng đã biết tội chưa?”

    Câu nói ấy đã khơi dậy nỗi đau đớn và nhục nhã nơi đáy lòng tôi, phải cố gắng lắm tôi mới kìm nén được, chỉ nói: “Nếu thần thiếp nói mình không cố ý, Hoàng thượng có tin không?”

    Giọng nói của y trở nên cứng đờ: “Sai chính là sai, vô tình cũng được, hữu ý cũng thế.”

    Tôi ngẩn ra, trái tim như bị người ta tàn nhẫn cào xé, đau đớn đến khó tả, nước mắt cũng ngừng rơi, rơm rớm lệ, cười nói: “Không sai, không sai, quả là lỗi của thần thiếp.” Tôi quỳ xuống. “Thần thiếp mạo phạm tiên Hoàng hậu, tội nghiệt nặng nề, nguyện bị cấm túc cả đời, không gặp lại Hoàng thượng lần nào nữa. Chỉ mong Hoàng thượng hãy thẩm xét lại án của huynh trưởng thần thiếp, chớ để người tốt phải hàm oan.” Tôi lại ngẩng lên. “Hoàng thượng, cũng xin niệm cái tình Thụy Tần đã chết.”

    Y nhìn tôi chằm chằm: “Vừa rồi nàng nói lời từ một phía không thể tin hoàn toàn, trẫm chưa chắc đã tin lời của Quản Lộ, nhưng Giai Nghi là ai, lẽ nào không phải là do nàng an bài cho huynh trưởng của nàng? Bây giờ cô ta cũng đã đứng ra làm chứng. Mà huynh trưởng của nàng quả thực có qua lại thân mật với hai người Tiết, Lạc, Thụy Tần thậm chí từng vì việc nàng bị cấm túc mà cầu xin trẫm mấy lần. Theo trẫm biết, nàng ta ở trong cung chưa từng qua lại với nàng, nếu không vì được phụ thân nhờ cậy, hà tất phải giúp nàng như thế?”

    Tôi không biết tại sao Thụy Tần lại giúp mình, lẽ nào chỉ vì cuộc tán gẫu bên bờ hồ Thái Dịch từ rất lâu trước đây? Tôi quả thực chẳng biết phải giải thích thế nào, mà đối với Giai Nghi, trong lòng tôi còn quá nhiều điều nghi hoặc.

    Giọng nói của Huyền Lăng lạnh lùng vang lên bên tai tôi: “Huynh trưởng của nàng thực chẳng thể tính là bị oan uổng!”

    Tôi tranh biện: “Dù như thế, tẩu tẩu cũng chỉ là một nữ lưu, Trí Ninh cũng còn quá nhỏ…” Tôi nghẹn ngào nói: “Huynh trưởng của thần thiếp vốn chẳng có công lao gì với xã tắc, chuyện bên ngoài cũng hết sức kỳ lạ, thần thiếp không thể biết được rõ ràng. Nhưng lòng trung thành của huynh trưởng thần thiếp với Hoàng thượng, lẽ nào Hoàng thượng chẳng để tâm tới chút nào sao?”

    Trong mắt y thoáng qua mấy tia lo nghĩ, dừng lại trên một bản tấu chương, ánh mắt sáng tối bất định. “Thanh Hà Vương xưa nay chẳng hỏi gì tới chính sự, vậy mà cũng dâng biểu nói giúp huynh trưởng của nàng…” Trái tim tôi bất giác giật thót, lẽ nào Huyền Lăng lại hoài nghi ca ca và Thanh Hà Vương cấu kết với nhau? Y nói tiếp: “Vợ chồng Chân Viễn Đạo tuổi tác đã cao, trẫm có thể nhẹ tay xử lý, nhưng huynh trưởng của nàng phạm tội tày đình, không thể dung tha được.” Y có chút không đành lòng. “Tẩu tẩu và cháu của nàng sá nay trẫm đã ra lệnh thả, nhưng mệnh trời thế nào, trẫm cũng không biết được.”

    Lời của y hết sức kỳ quặc, tôi nghe mà tim đập chân run. “Tại sao Hoàng thượng lại nói như vậy?”

    Y thở dài, nói: “Tẩu tẩu và cháu của nàng khi ở trong ngục đã bị sốt rét, An Phương nghi hết lòng cầu xin, thậm chí còn bằng lòng để viên quan y phục vụ mình đến chữa trị cho bọn họ, trẫm đã phái hắn đi rồi.”

    Đầu lưỡi tôi run lẩy bẩy, trong ngục ẩm ướt, nhưng bây giờ đã là tháng Mười, sao có thể dễ dàng bị sốt rét được, đây là bệnh có thể lấy mạng người đấy! Huống chi để viên quan y bên cạnh An Lăng Dung đi chữa trị, tôi lại càng không thể yên tâm. Tôi đau đớn kêu lên: “Hoàng thượng…”

    Y đỡ lấy vai tôi, nói: “Có thái y ở đó, mẹ con bọn họ nhất định sẽ được tận tình chữa trị.” Y dừng lại một chút. “Nhưng huynh trưởng của nàng kéo bè kết cánh, trẫm đã hạ chỉ rồi, sung quân đến Lĩnh Nam. Phụ thân của nàng bị biếm làm Thứ sử Giang Châu, phái tới vùng Xuyên Bắc, đây cũng coi như là trẫm niệm tình ông ta đã phải vất vả cả đời.”

    Lĩnh Nam và Xuyên Bắc một nam một bắc cách trở xa xôi, Lĩnh Nam nhiều chướng khí, Xuyên Bắc đồi núi gập ghềnh, đều là nơi rừng thiêng nước độc, phụ thân tuổi tác đã cao, sao chịu được nỗi khổ như thế? Hơn nữa Ngọc Diêu và Ngọc Nhiêu từ nhỏ đã được nuông chiều, phải lang bạt đến nơi xa như vậy, sao chịu nổi đây? Trong lòng tôi trào dâng nỗi căm phẫn tột cùng, nơi bụng lại truyền tới cảm giác nhói đau, tựa như có một con rắn bò qua bò lại.

    Tôi buồn đau khôn tả, sự oán hận cũng khó lòng kìm nén thêm được, bèn ngẩng đầu, nhìn hẳng vào mắt y. “Hoàng thượng, rốt cuộc là người có chứng cớ rõ ràng hay chỉ vì chuyện Nhữ Nam Vương nên mới sinh ra nỗi ám ảnh trong lòng, luôn không yên tâm về người khác?”

    Y cả giận, giọng nói trở nên dữ dằn, lạnh lùng đến băng giá: “Nàng có biết nàng đang nói gì không?” Theo cơn giận dữ, y vung cánh tay ra, vô tình chạm vào giá sách bên cạnh. Một tờ giấy Tiết Đào[2] màu đỏ thẫm từ trên đống sách nhẹ nhàng bay xuống, va vào mặt tôi. Tôi vốn đang quỳ, liền tiện tay mở nó ra xem. Thế nhưng chỉ vừa mới nhìn lướt qua, thân thể tôi đã trở nên cứng đờ, tựa như đang nằm trên giường băng.

    [2] Tiết Đào là một danh kỹ kiêm thi nhân nổi tiếng đời Đường, giấy Tiết Đào là một loại giấy chuyên dùng để viết thơ, viết thư do Tiết Đào thiết kế ra.

    Tất cả chân tướng vốn chỉ là một vài lời nói vụn vặt, còn giờ đây những lời này đều được viết ra rõ ràng trên giấy, tuy sớm đã tỏ tường nhưng trái tim vốn nguội lạnh kia của tôi lại lần nữa ngợp trong cảm giác đớn đau.

    Tôi cứ ngẩn ngơ nhìn chằm chằm vào đó, tờ giấy Tiết Đào đỏ thẫm bị tôi nhìn đến nỗi cơ hồ đỏ máu. Mạch đập của tôi dần trở nên dồn dập, trong lồng ngực chừng như có thứ gì đó bất cứ lúc nào cũng có thể nhảy vọt ra ngoài, trái tim tựa như rơi vào một hồ nước lạnh băng dịp tháng Chạp, cái cảm giác lạnh thấu xương đó khiến đôi tay tôi không kìm được lẩy bẩy run lên, như thể chiếc lá khô còn sót lại trên cành giữa làn gió thu, trong lòng có thứ âm thanh đang gào lên dữ dội: Không phải thế! Không phải thế! Uyển Uyển[3]! Uyển Uyển! Không ngờ lại là Uyển Uyển! Sai rồi, sai cả rồi, từ đầu đến cuối toàn là những sai lầm!

    [3] Chữ “Uyển” này đồng âm với chữ “Hoàn” trong “Hoàn Quý tần”.

    “Gửi ái thê Uyển Uyển, nghĩ tới việc nàng đã ra đi, lòng ta xiết bao đau xót, thường ngày nhớ đêm mong, quên ăn quên ngủ. Hồi tưởng lại từng lời nói, tiếng cười của nàng thuở xưa, lòng ta đớn đau, nay làm bài Thuật bi phú để tỏ lòng thương nhớ. Mong hương hồn nàng trên trời có linh thiêng hãy hiểu cho nỗi khổ của ta, thường vào trong giấc mộng để giúp ta thỏa nỗi tương tư da diết. Ta dù có được Hoàn Hoàn, người con gái giống nàng, có thể tạm thời xua tan nỗi sầu đau, nhưng hiềm rằng ngoài chốn non Vu chẳng có mây[4].

    [4] Trích Ly tư kỳ 4, tác giả Nguyên Chẩn, ý rằng đã thấy một cảnh đẹp tuyệt vời rồi thì chẳng còn thiết tha gì những cảnh đẹp khác nữa.

    Cớ gì Kinh Dịch bắt đầu bằng càn khôn? Tại sao Kinh Thi đặt quan tuy lên trước nhất? Ấy là vì phu thê là khởi nguồn cho mọi mối nhân luân, càn khôn thì đại diện cho trời đất… Bóng hình nàng ở mãi trong ta, khiến lòng ta bồi hồi da diết. Phi tần lục cung nhiều sao kể xiết, ta nhìn mà chỉ nhớ đến nàng… Đau đớn thay, vật cũ bày ra nhìn ngắm, lòng lại nhớ đến cảnh tốt đẹp năm xưa, có lúc tâm thần phiêu đãng, bỗng đâu tức cảnh sinh tình, thổn thức làm sao. Cõi đời kia thực chỉ là giấc mộng, tỉnh mộng rồi vạn sự giai không. Hỡi ôi, sầu gì hơn nỗi sầu sinh ly tử biệt, đau gì hơn nỗi đau để mất ái thê, từ nay đằng đẵng cuộc đời ai cùng ta theo bước? Cung đn kia nay còn ai ở, rèm trướng kia trống trải xiết bao, gió xuân khẽ thổi, người đã chẳng còn, chỉ biết thở dài thống thiết, tỏ rằng: Gió xuân trăng thu đều đã ở đây rồi, ngày hạ đêm đông đến khi nào mới quay trở lại[5]?”

    [5] Bài Thuật bi phú này vốn do vua Càn Long viết để kỷ niệm người vợ kết tóc đã qua đời là Hiếu Hiền hoàng hậu, những chỗ ba chấm là phần bị lược bỏ – ND.

    Bút tích của Huyền Lăng tôi vốn đã vô cùng quen thuộc, nhìn đến đoạn cuối cùng, bút lực dần trở nên yếu ớt, ngắt quãng, còn có vệt nước mắt lưu lại bên trên làm nhòe dấu mực, đủ thấy khi hạ bút, y đã thương tâm đến mức độ nào.Ngoài chốn non Vu chẳng có mây, hay cho câu ngoài chốn non Vu chẳng có mây. Thì ra là nàng ta, không ngờ lại là nàng ta, tất cả mọi sự sủng ái tôi nhận được hóa ra đều là bởi nàng ta, bởi tôi và nàng ta có mấy phần giống nhau.

    Ngày nhớ đêm mong, ngày nhớ đêm mong, những tiếng gọi chứa chan tình ý của Huyền Lăng trong giấc mộng, hóa ra đều là gọi nàng ta, gọi Thuần Nguyên Hoàng hậu Chu Nhu Tắc vốn đã qua đời.

    Vậy, tôi được tính là gì đây?

    Đôi tay tôi bất giác trở nên mềm nhũn, tờ giấy Tiết Đào nhè nhẹ buông rơi, đậu xuống chiếc thảm màu vàng. Dường như toàn bộ sức lực trong thân thể tôi đều đã bị rút cạn, chẳng còn lại chút nào, cứ thế ngồi bệt xuống đất. Ngoài cửa sổ, tiếng côn trùng rả rích không ngớt vang lên, một cây phong hững hờ tỏa bóng, màu đỏ tươi của nó khiến đôi mắt tôi nhói đau, cơ hồ nhìn thấy thứ gì khác nữa.

    Lồng ngực tôi nhộn nhạo khó tả, cơn đau nơi bụng vì thế mà lại càng trở nên dữ dội hơn, dường như đứa bé trong bụng tôi cũng hiểu được sự ấm ức mà mẹ nó phải chịu, đang bất bình thay cho tôi.

    Huyền Lăng nhặt tờ giấy Tiết Đào đó lên, sắc mặt đầy vẻ tiếc thương dịu dàng, ánh mắt dần dịu xuống, trong veo như một đầm nước thu. Ánh mắt đó chẳng hề dừng lại trên người tôi, chỉ có vẻ đang tập trung suy nghĩ, dường như đã đắm chìm vào dòng quá khứ đẹp đẽ ngày xưa, miệng hỏi: “Nàng biết rồi?”

    Tôi không trả lời, giờ còn gì để nói nữa đâu?

    Huyền Lăng cất giọng cảm khái: “Kỳ thực có mấy phần giống với Uyển Uyển, đó cũng là cái phúc của nàng.”

    Tôi cơ hồ cười lạnh thành tiếng, vậy sao? Đó rốt cuộc là cái phúc của tôi, hay là sự bất hạnh? Tôi cảm thấy sau lần gặp mặt này, trái tim tôi đã hoàn toàn giá lạnh, tất cả mọi tình cảm cũng tan biến sạch. Y thực xa lạ biết bao, khiến người ta cảm thấy khó gần biết bao. Người sai không chỉ có Huyền Lăng, tôi cũng đã sai rồi, tình yêu trong bao năm nay đều giao phó nhầm người.

    Cánh cửa kêu “két” một tiếng, mở ra, một thân hình nhỏ nhắn đi vào, nhìn thấy tôi cũng ở đây liền vội vàng lùi lại. Tôi gần như không còn nhớ được, nơi thư phòng này, ngoài tôi ra, Lăng Dung cũng có thể tùy ý ra vào.

    Sắc mặt nàng ta kiều diễm mà tươi trẻ, hồng hào như ráng chiều, so với sự thương tâm và tiều tụy của tôi lúc này lại càng khiến người ta không đành lòng đưa mắt. Huyền Lăng gọi nàng ta lại, hỏi: “Có chuyện gì?”

    Nàng ta lúng túng đưa mắt nhìn tôi, muốn nói mà lại thôi. Huyền Lăng vốn không thích bộ dạng này, lập tức thúc giục mấy bận rồi nàng ta mới rụt rè nói: “Vừa rồi thái y tới bẩm báo, Chân thiếu phu nhân và tiểu công tử bị sốt rét quá nặng, đã không thể cứu được nữa rồi.” Nàng ta còn chưa nói xong, nước mắt đã giàn giụa, khiến người ta nhìn mà thấy thương xót.

    Lăng Dung nói rồi liền bước tới đỡ tôi, nói với giọng hết sức quan tâm: “Tỷ tỷ đang có thai, ngàn vạn lần chớ thương tâm quá!”

    Tôi biết sự việc không đơn giản như vậy, giữa dòng nước mắt nhạt nhòa, tôi thấy khuôn mặt nàng ta trở nên méo mó, hết sức đáng sợ. Nàng ta thừa dịp ở ngay gần tôi, lẳng lặng ghé tai tôi, khẽ cười, nói: “Bọn họ không thể cứu được nữa rồi!”

    Tôi căm hận đến nỗi cơ hồ muốn hộc máu, đang định đẩy tay nàng ta ra, nơi bụng chợt truyền tới một cơn đau dữ dội, chừng như muốn nứt ra. Gió thu lạnh tựa băng, sương thu phủ đất trời, vầng trăng tựa một khuôn mặt quỷ quái, tất cả cùng lao về phía tôi. Bàn tay tôi mất hết sức lực, buông rũ xuống, cuối cùng tôi nhìn thấy mép váy đỏ tươi của mình, máu đỏ lan đi như dùng suối.

    Đau quá, đau đến nỗi không thở nổi, tựa như đang bị muôn vàn con dao tùng xẻo trên người, đau đến thấu vào gan ruột. Trong cơn đau, thân thể tôi trở nên ướt nhẹp, dường như có muôn vàn dòng suối cuộn chảy trong thân thể tôi, những đốt xương như nứt ra từng chút. Là ai đang khóc, sao lại đớn đau như thế, khiến trái tim tôi trở nên bấn loạn, mỗi tất da thịt dường như đều đang nứt ra. Tôi cơ hồ có thể nghe thấy những tiếng “răng rắc”, có thứ gì đó chuẩn bị chui ra khỏi thân thể tôi.

    Tôi chìm trong cơn hôn mê, giọng nói của vô số người đang thúc giục tôi… “Dùng sức! Gắng dùng sức!” Những bông hoa hạnh bay khắp trời, nhẹ nhàng rơi xuống thân thể tôi, tôi vì y mà hạ quyết tâm tham gia vào những cuộc tranh đấu trong hậu cung…

    Đêm đầu tiên trong Nghi Nguyên điện, y ôm chặt thân thể tôi, thành khẩn nói: “Tâm ý của nàng trẫm coi như báu vật, ắt sẽ không phụ nàng.”

    Điệu Kinh hồng tung bay tha thướt, làm xao động trái tim y, hay là trái tim tôi? Mẹ nói, điệu Kinh hồng là để múa cho nam tử mà mình yêu xem.

    Ngày hè trong Nghi Phù quán, y vẽ lông mày hình núi xa cho tôi, sắc mặt lộ vẻ mê đắm: “Thứ trẫm xem trọng là tình cảm của nàng.”

    Giữa đêm khuya, y cùng tôi ngồi bên ô cửa sổ, thắp đèn viết chữ làm thơ như những cặp phu thê trong gia đình bình thường. Giữa cảnh xuân sâu tựa biển, giữa những bông hoa lê trắng xóa như tuyết, y trang điểm cho tôi theo lối Giảo lê trang, rồi cất tiếng cười rộ. “Hoàn Hoàn, Hoàn Hoàn! Nàng đã có đứa con của chúng ta rồi, nàng có biết trẫm vui mừng thế nào không?”

    Trên mặt y ngợp nét cười, phong thái lại càng siêu phàm thoát tục, chỉ tay vào nhành hải đường trên búi tóc tôi, nói: “Trẫm và Hoàn Hoàn cũng đang tuổi thanh xuân tươi trẻ, hãy mãi ở bên nhau như hai bông hoa liền cành này.”

    Y cất giọng vô cùng trịnh trọng: “Dù chốn hậu cung có muôn ngàn giai lệ, trong lòng Tứ lang vẫn chỉ có duy nhất một Hoàn Hoàn thôi, không ai có thể thay thế được.”

    Y khẽ hôn lên vành tai tôi, thấp giọng nói: “Trẫm sẽ không để nàng rơi nhiều nước mắt thế nữa đâu.”

    Chuyện xưa như giấc mộng lần lượt hiện lên trong đầu tôi, rốt cuộc hóa thành sương tuyết, chỉ còn lại một mảng trắng lòa sạch sẽ.

    Tôi cố gắng giãy giụa, gắng hết sức lực toàn thân.

    Dường như có một niềm vui to lớn đang bao bọc lấy tôi, xung quanh là tiếng khóc vang trời của trẻ sơ sinh và những tiếng cười vui vẻ. Tôi mỏi mệt chìm vào giấc mộng, không còn sức mở mắt ra nữa.

    Tôi nằm mơ một giấc mơ rất dài, mơ thấy vô số chuyện ngày xưa, vừa vụn vặt vừa rõ ràng. Vào cung mới bốn năm, vậy mà đã xảy ra biết bao chuyện, tựa như cả một cuộc đời.

    Đợi khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng, Cận Tịch vừa vui mừng vừa buồn bã bước tới, tha thiết nói: “Chúc mừng nương nương, người đã hạ sinh một vị công chúa.” Rồi lại nói thêm: “Công chúa rất khỏe mạnh, trông xinh đẹp lắm!”

    Tôi vẫn còn có chút ngẩn ngơ, Công chúa?

    Hoán Bích đứng bên cạnh, nói: “Nương nương làm nô tỳ sợ chết mất, người đã hôn mê một ngày một đêm rồi!”

    Tôi vô thức đưa tay sờ bụng, bụng tôi bây giờ phẳng lì, tôi sợ đến giật nảy mình, đứa bé của tôi biến mất rồi! Từng có một lần tôi cũng tỉnh dậy từ sau giấc ngủ như thế, và đứa bé của tôi đã chẳng còn trên cõi đời này!

    Tôi cơ hồ muốn bật khóc thành tiếng, Cận Tịch vội bế đứa bé đến trước mặt tôi, nói: “Nương nương đừng nôn nóng, Công chúa ở đây.”

    Tôi bất giác thở phào một hơi, ôm chặt đứa bé vào lòng, nó nhỏ biết mấy, làn da trên mặt còn hơi nhăn và đỏ bừng, đôi mắt đang hé mở, giống tôi như đúc. Nó rất nhẹ, rất ấm áp, tôi mừng đến rơi nước mắt. Con gái của tôi, đây là con gái của tôi.

    Hoán Bích chỉ tay vào nhũ mẫu, nói: “Đây là nhũ mẫu của Công chúa, Cận nương.”

    Đó là một người đàn bà đoan trang, khỏe mạnh với làn da trắng trẻo, thân hình phốp pháp, khi nói chuyện cũng thể hiện rõ sự thuần phác, dịu dàng. Cận Tịch nói: “Công chúa bị sinh non, còn chưa đầy tháng, thái y tới khám qua, nói là phải chăm sóc thật cẩn thận.”

    Tôi dù sao cũng vừa sinh nở xong, người hãy còn yếu, bế được một lúc đã cảm thấy mỏi, nhưng vẫn không nỡ buông đứa bé xuống. Cận Tịch ghé tai tôi, khẽ nói: “Hoàng thượng tới rồi, tới thăm nương nương đấy!”

    Tôi đang định dặn: “Bảo là ta thân thể không khỏe, không gặp được.” Ngẩng lên đã thấy Huyền Lăng bước vào điện, bèn ngoảnh đầu đi, không thèm nhìn y. Con người này, tôi không muốn gặp lại nữa.

    Y đưa mắt nhìn tôi. “Vẫn giận sao? Lẽ nào nàng còn chưa hiểu thấu sự tình?”

    Tôi hết cách, đành nói: “Hoàng thượng muốn thần thiếp hiểu thấu điều gì?”

    Y tỏ ra có mấy phần cảm khái: “Nàng đã sinh cho trẫm một công chúa, còn muốn tiếp tục giận dỗi thế này nữa sao? Trẫm đã quyết định rồi, bất kể nhà họ Chân thế nào trẫm cũng sẽ không trút giận lên nàng, chỉ cần nàng bằng lòng, ngày mai trẫm sẽ hạ chỉ phong nàng làm chiêu nghi.”

    Tôi ngoảnh đi, nói: “Thần thiếp thất đức, không dám ở ngôi chiêu nghi.”

    Y bước tới gần tôi, dịu giọng khuyên nhủ: “Hoàn Hoàn, nếu nàng chịu, nàng vẫn sẽ là sủng phi của trẫm, trẫm sẽ đối xử với nàng như trước đây.”

    Tôi cười lạnh, cười đến không thể kìm chế được, lát sau mới dừng lại, nói: “Hoàng thượng cho rằng còn có thể sao?”

    Thần sắc sau nháy mắt đã trở nên lạnh lùng, y hờ hững nói: “Không sai, quả đúng là trẫm đã quá xót thương nàng rồi. Tâm tính nàng như vậy, thực không thích hợp ở lâu trong cung.”

    Cuộc sống trong cung tôi đã sớm chán ngấy rồi. Hận ư? Yêu ư? Đều đã không còn quan trọng nữa. Hoàng hậu và Lăng Dung, Hoa Phi và Dư thị, người tôi hận nhiều đến thế, liệu có giết hết được không? Tôi đã giết bao nhiêu người rồi, còn phải giết bao nhiêu người nữa, sợ là không có điểm dừng. Quanh tôi toàn là máu tanh và sự giết chóc, chẳng có tình cảm, cũng chẳng có lấy một chút chân tâm. Nhà đã tan rồi, người cũng chết rồi, tôi đã chán ghét đến cực điểm. Tôi nào còn muốn ở lại nơi này nữa, chi bằng quay về, chi bằng quay về.

    Huyền Lăng nói tiếp: “Để trẫm nói với nàng, cha mẹ, anh em của nàng hôm nay đều đã khởi hành rồi.”

    Tôi chỉ thoáng ngẩn ra, nở một nụ cười thê lương. “Đa tạ Hoàng thượng!”

    Y lắc đầu, lộ vẻ chán ghét. “Nàng như thế này… Hãy tới Phật đường tĩnh tâm đi, không cần ở lại đây nữa.”

    Đúng thế, tôi không thể ở lại đây nữa, có một mẫu phi không được lòng phụ hoàng như vậy, có một gia tộc đằng mẹ suy bại đến thế này, con gái tôi sẽ vì tôi mà phải chịu rất nhiều nỗi giày vò và khổ sở.

    Nhưng ở Phật đường… tôi sẽ phải ở cách con gái tôi rất xa.

    Con gái tôi vẫn còn ở trong nôi, mọi việc trên đời nó chưa hề hay biết gì. Bao nhiêu mưu mô chước quỷ, bao nhiêu sóng gió ngợp trời trong chốn hậu cung nó chưa thể lĩnh hội được, và tôi cũng không thể để nó lĩnh hội. Người làm mẹ tôi đây sắp phải rời xa chốn hậu cung đã khiến tôi hao tổn gần như toàn bộ tâm lực và tình cảm, tương lai của nó, tôi đã không thể mang lại bất kỳ sự đảm bảo gì nữa rồi. Chuyện duy nhất tôi có thể làm bây giờ là giúp nó an bài mọi việc trong khả năng cho phép của tôi.

    Nỗi đau đớn và nhục nhã lớn lao trong lòng tựa như những lưỡi dao sắc bén cứa lên da thịt, tôi cắn chặt bờ môi, trái tim chừng như muốn nhỏ máu. Thế rồi, tôi ngẩng lên, bình tĩnh nói: “Đứa bé này còn chưa được đặt tên, thần thiếp sắp đi rồi, tên của đứa bé xin cho phép thần thiếp được đặt. Mong Hoàng thượng thành toàn.”

    Ánh mắt y bình tĩnh đến nỗi gần như không có chút tình cảm nào, hồi sau mới nói: “Được!”

    Tất cả mọi nỗi chua xót sau nháy mắt đã trào lên cổ họng, tôi cố sức nuốt nước mắt vào trong, nói chậm rãi từng từ: “Hãy gọi là Oản Oản[6] đi.” Cứ nói được một chữ, trái tim tôi lại giống như bị cứa vào một nhát dao nhục nhã.

    [6] Trong tiếng Hán, chữ “Oản” này đồng âm với chữ “Hoàn” trong “Hoàn Quý Tần” – ND.

    Hai mắt y lóe sáng, bên trong ngợp một nỗi, chấn động, đau lòng và nhiệt tình khó mà miêu tả bằng lời, dường như có thể đốt cháy toàn bộ ánh trăng trên mặt đất, giọng nói trở nên hơi khàn khàn: “Uyển Uyển?”

    Nỗi đau đớn nơi đáy lòng cùng tiếng cười lạnh nơi kẽ răng cơ hồ bật thốt ra ngoài, trong lòng y, quả nhiên chỉ có một Uyển Uyển thôi! Nhưng rốt cuộc tôi vẫn kìm chế được, mỗi lời nói, cử chỉ của tôi lúc này đều có liên quan tới tương lai và sự an nguy của đứa bé trong lòng tôi, vì nó, tôi nhất định phải nhẫn nhịn.

    Trong chăn có đặt một bình nước nóng dùng để sưởi ấm, vậy nhưng dường như chẳng còn chút nhiệt độ nào, vừa giá lạnh vừa ẩm ướt. Đôi chân tôi đã trở nên tê dại, duy chỉ có đầu óc là vẫn còn nhạy bén như cũ. Nụ cười thê lương đã không còn chịu sự khống chế của tôi, từ từ lan trên khóe môi của tôi: “Thần thiếp sao dám để Công chúa dùng nhũ danh của tiên Hoàng hậu, ấy là tội đại bất kính.” Có lẽ tự nơi đáy lòng tôi cũng không hy vọng con gái mình thật sự dùng chung tên với nàng ta, bèn chậm rãi nói: “Tóc dài trói lòng chàng[7], chuyện mà thần thiếp không làm được, chỉ mong Công chúa có thể. Tất cả những chuyện bất hạnh đã xảy ra với người mẹ vô dụng này, mong là đừng xảy ra với nó nữa. Trong quãng đời còn lại, thần thiếp nhất định sẽ ngày đêm ở bên ngọn đèn dầu với bức tượng Phật cầu xin cho nó được bình an.”

    [7] Trích Tử dạ ca, Tiều Thái. Theo phong tục cổ của Trung Quốc, vợ chồng trong đêm tân hôn mỗi người sẽ phải cắt một lọn tóc, dùng chúng buộc thành nút đồng tâm, tỏ ý mong tình chồng vợ được lâu bền, câu thơ chính là nói tới việc này – ND.

    Y thoáng im lặng, sắc mặt dần hòa hoãn. “Kỳ thực nàng không muốn rời cung cũng được, có thể ở lại Thái miếu trong cung…”

    Thái miếu trong cung? Tôi kiên quyết cự tuyệt: “Thần thiếp mang tấm thân chẳng lành, thực không dám quấy nhiễu sự bình yên trong cung.”

    Sắc mặt y trở nên có chút khó coi, rồi không còn dị nghĩ gì nữa. “Nàng đi sớm cũng tốt, hoàng cung chẳng thể giữ nàng lại được nữa rồi!”

    Y đón lấy con gái từ trong tay nhũ mẫu, ôm chặt vào lòng, ánh mắt lộ vẻ thương yêu, khóe miệng nở nụ cười mỉm như một người cha hiền từ, chẳng hề liếc nhìn tôi đến một cái, chỉ dịu dàng gọi tên đứa bé: “Oản Oản… Oản Oản…” Tôi không biết khi y gọi như vậy, liệu có nhớ tới Thuần Nguyên Hoàng hậu không, có điều nhìn bộ dạng của y, quả đúng là yêu thương con gái vô cùng. Có một cái tên tương tự như vậy, con gái tôi sẽ được phụ hoàng của nó rất mực thương yêu, mà nó lại không phải con trai, tất nhiên sẽ không bị cuốn vào cuộc chiến tranh đoạt quyền thừa kế ngai vàng, có được một chút thương yêu này là đã đủ để nó không bị người ta coi thường rồi. Chỉ là nghĩ đến việc tiền đồ của con gái tôi lại phải dựa vào Thuần Nguyên Hoàng hậu, con người có tướng mạo hơi giống với tôi kia, trái tim tôi thực chua xót vô cùng, mà bên trong sự chua xót còn ngợp nỗi bi thương.

    Tôi chỉnh sửa lại quần áo, trịnh trọng quỳ xuống, khấu đầu nói: “Thần thiếp còn một chuyện muốn cầu xin.”

    Ánh mắt y dừng lại trên mặt tôi, khẽ nói: “Nàng nói đi!”

    Nước mắt ầng ậng trong khóe mắt, tôi nhìn đứa bé, thầm nói: Con gái, mẹ phải đi đây, mẹ sẽ cố gắng an bài sẵn con đường sau này cho con, nhưng kết cục thế nào rốt cuộc vẫn phải dựa vào bản thân con, mẹ cũng chẳng thể làm gì hơn được. Rồi cất tiếng: “Kính Phi nương nương vào cung đã lâu, không có con cái, lại có tấm lòng của một người mẹ hiền, thần thiếp hy vọng sau khi mình xuất cung, Công chúa sẽ được giao cho Kính Phi nương nương nuôi dưỡng.”

    Y thoáng suy nghĩ rồi nói: “Hoàng hậu và Đoan Phi đều đã có con, Kính Phi đúng là có thể nhờ cậy được.”

    Tôi lại khấu đầu một cái thật sâu. “Vậy, thần thiếp không còn điều gì nuối tiếc nữa.”

    Tôi và y đều không nói gì thêm, những năm nay, tôi kỳ thực chưa từng thật sự hiểu y, mà y cũng chưa từng thật sự hiểu tôi. Đối với tôi, tôi rốt cuộc vẫn có điều mưu tính, mà y thì cũng chẳng khác gì.

    Bầu không khí trong điện tĩnh lặng lạ thường, thỉnh thoảng lại có tiếng quạ thê lương vang lên giữa màn đêm, gió thổi cành cây bên ngoài cửa sổ phát ra những tiếng lào xào không ngớt. Ánh trăng chiếu qua ô cửa sổ vào phòng, để lại trên mặt đất những tia sáng lờ mờ, dìu dịu.

    Tôi đưa tay ra bế con gái, dán sát mặt nó vào mặt mình. Nó còn chưa biết gì, vẫn nhắm chặt mắt ngủ say, khuôn mặt đỏ bừng. Một giọt nước mắt của tôi rơi xuống, nó vô thức chóp chép miệng, không biết có thể cảm nhận được một tia ngọt ngào từ bên trong giọt nước mắt đắng chát ấy không.

    Vẻ mặt Huyền Lăng có chút ngẩn ngơ và buồn bã, nhìn bóng trăng rọi xuống đầy đất, y nói: “Lúc này, ánh trăng mông lung, vây ban cho Oản Oản phong hiệu là Lung Nguyệt đi.”

    Lung Nguyệt, đúng là một phong hiệu không tồi. Các Công chúa bình thường phải đợi tới ngày đầy tháng mới được ban phong hiệu, mà cũng chỉ là những chữ bình thường như hiền lương thục đức. Lung Nguyệt vừa ra đời đã có vinh dự này, đủ thấy Huyền Lăng rất thương yêu nó, mà ấy cũng là một sự an ủi với Kính Phi. Tôi không còn điều vướng bận gì nữa, lẳng lặng tạ ơn.

    Y cũng cảm thấy tẻ nhạt, lại có chút cô đơn, ánh mắt vừa dịu dàng vừa lạnh lẽo, tựa những tia sáng lập lòe bất định. Những tháng ngày bao năm qua và chút tình cảm còn sót lại, cuối cùng ngưng tụ thành một câu: “Hoàn Hoàn, nàng còn có điều gì muốn nói với trẫm không?”

    Còn có điều gì để nói nữa đây, giữa tôi và Huyền Lăng, thật sự đã chẳng còn gì nữa rồi. Thế nhưng Hoàng đế đã hỏi chuyện, tôi không thể không trả lời. Hồi lâu sau, tôi khẽ đáp với giọng kiên quyết: “Dây đàn đứt, gương sáng vỡ, sương sớm khô, hương thơm tàn, người đầu bạc, thương nỗi biệt ly, mong chàng mạnh giỏi, mau mau quên thiếp, sông Cẩm mênh man, từ nay xin cùng chàng vĩnh biệt[8]!” Ngâm xong, tôi khấu đầu ba cái, không nói gì thêm.

    [8] Trích Quyết biệt hư, Trác Văn Quân – ND.

    Giọng nói của y có chút chua chát: “Được! Được! Đã như vậy, trẫm không còn gì để nói nữa. Nàng đã quyết ý đi, Lung Nguyệt, trẫm sẽ cùng Kính Phi nuôi nấng thật tốt!” Dứt lời, y liền phất tay áo rời đi. Tôi lạnh lùng nhìn theo bóng y, không rơi một giọt nước mắt nào nữa.

    Ba ngày sau, tôi bị phế bỏ toàn bộ phong hiệu và tước vị, phải rời khỏi Đường Lê cung đến chùa Cam Lộ ở ngoại ô kinh thành để tóc tu hành. Cận Tịch và Hoán Bích nhất quyết đi theo tôi, những người khác thì ở lại chăm sóc Lung Nguyệt.

    Trong khoảnh khắc được bế Lung Nguyệt trên tay, Kính Phi cảm động đến rơi nước mắt, nắm chặt lấy bàn tay tôi, nói: “Ta nhất định sẽ coi Công chúa như con ruột của mình.”

    Tôi khẽ cất giọng thành khẩn: “Đứa bé chính là con ruột của tỷ tỷ rồi, việc gì phải coi như. Muội tin tỷ tỷ nhất định sẽ chăm sóc cho nó thật tốt.”

    Nàng ta gật đầu. “Ta biết, đứa bé này trao cho ai nuôi nấng mà chẳng được, muội vì thương ta không có con cái làm nơi nương tựa nên mới nhờ ta.”

    Tôi cúi đầu, nói: “Mong tỷ tỷ niệm tình nghĩa ngày xưa mà giúp muội chiếu cố Thẩm Tiệp dư một chút!” Tôi khẽ hôn lên má Lung Nguyệt, lòng đau đớn tột cùng, xoay người rời đi.

    Tôi lẳng lặng nhìn Hoán Bích và Cận Tịch chuẩn bị đồ đạc, những thứ cần mang theo chỉ là một số vật thiết yếu nhất, còn quần áo và đồ trang sức thì đều để lại Đường Lê cung. Đêm trước khi đi, Hoán Bích do dự hỏi tôi, có cần mang theo đôi giày ngọc mà năm xưa Huyền Lăng tặng cho không, dù sao đối với tôi, đó cũng là thứ quý giá nhất.

    Tôi khẽ cười hờ hững, lấy cây đàn Trường tương tư ra, còn những vật khác mà Huyền Lăng tặng cho thì đều cất vào trong rương và khóa lại, đó là những thứ của quá khứ rồi, hà tất phải giữ lại làm gì nữa. Duy có cây đàn Trường tương tư này mới thật sự là tri âm của tôi!

    Ngoài cửa sổ, mưa rơi rả rích, xe ngựa lộc cộc lăn bánh chạy trên vĩnh hạng, khi đi ngang qua Vân Ý điện, tôi nhớ lại, chỉ mới bốn năm trước thôi, tôi đã bước chân vào hoàng cung từ nơi này. Tôi cười khẽ, khi đó tôi trẻ biết mấy, tự cao biết mấy, tuy không có lòng vào cung nhưng lại nhất thời vô ý trổ tài thơ từ trước mặt Huyền Lăng, thế là mới có biết bao sự tranh đấu và phong ba sau này. Nếu nói tới hối hận, đó nhất định là ngày mà tôi hối hận nhất.

    Những hạt mưa mỏng manh, giá lạnh như nước mắt, ngoài Vân Ý điện đứng đầy những nữ tử ăn mặc điệu đà, làm sáng rực chốn cung đình vốn đang tiêu điều giữa mùa mưa. Tôi vừa có chút nghi hoặc, Cận Tịch đã ghé đến bên cạnh tôi, nói: “Hôm nay là ngày tuyển tú.”

    Thì ra là tuyển tú, việc bị trì hoãn từ năm ngoái, năm nay rốt cuộc đã tiến hành rồi.

    Các nữ tử bên ngoài điện ai nấy đều trẻ trung, xinh đẹp, tươi cười rạng rỡ, ánh mắt toát đầy vẻ cao ngạo và khát khao, như thể những bông hoa non nớt đang chờ đợi kẻ quân vương đến hái. Nếu bọn họ biết được câu chuyện của tôi, liệu có sinh lòng e sợ, rồi vì thế mà chùn bước hay không?

    Không, bọn họ nhất định sẽ không chùn bước. Vì Lăng Dung từng cùng vào cung với tôi giờ đây đã trở thành người thắng lợi. Hậu cung là nơi khiến người ta phát điên như thế đấy, chỉ cần có một người thành công, chỉ cần có một khoảnh khắc thành công, vậy là sẽ có vô số người cam lòng đi tranh đấu, đi bày mưu tính kế, đi nhuốm máu tanh lên đôi tay của mình.

    Có điều, đó là câu chuyện của bọn họ.

    Cửa cung nguy nga chót vót, đưa mắt nhìn ra xa, hai bóng hình quen thuộc lọt vào tầm mắt tôi. Giữa làn mưa bụi mịt mù, My Trang lặng im đứng đó, Ôn Thực Sơ ở ngay cạnh tỷ ấy, tay cầm ô che cho cả hai người.

    Xe ngựa đi chậm lại một chút, tiếng vó ngựa lộc cộc như gõ vào lòng người, nước mắt của tỷ ấy rưng rưng trong khóe mắt, tôi đưa tay tới, rồi hai chúng tôi nắm chặt lấy tay nhau. Ôn Thực Sơ thấy vậy bèn nhét một túi bạc cho thị vệ, xin y lui ra xa vài bước.

    My Trang đưa tay lên gạt những giọt nước mắt sắp rơi, cười buồn nói: “Đi rồi cũng tốt, ít nhất cũng được giải thoát khỏi chốn ngục tù này.”

    Sống mũi tôi cay sè, khẽ ngoảnh đầu qua một bên. “Tỷ tỷ xin hãy bảo trọng, muội sợ là không còn cơ hội gần gũi với tỷ tỷ nữa rồi.”

    Tỷ ấy vỗ nhẹ bờ vai tôi. “Muội đã đi rồi, ta còn lưu luyến gì nơi đây nữa, chỉ mong được cùng đi với muội.”

    Tôi lại càng lộ rõ nét bi thương. “Sao tỷ tỷ lại nói vậy?” Thấy bốn phía xung quanh không có ai khác, tôi khẽ nói: “Ngày nào còn ở trong cung, tỷ nhất định phải để ý An Lăng Dung và Hoàng hậu, cũng phải cẩn thận Kỳ Tần, đừng vì muội mà hành động theo cảm tính, bảo bệ bản thân mới là điều quan trọng.” Rồi lại thành khẩn quay sang phía Ôn Thực Sơ. “Ôn đại nhân, tỷ tỷ cô độc một mình, ta xin giao phó tỷ ấy cho ngài, mong ngài đừng để tỷ ấy bị rơi vào cạm bẫy của người khác.”

    Ôn Thực Sơ nói: “Nương nương…”

    Tôi mỉm cười ngăn lại: “Ta đã không còn là nương nương nữa rồi!”

    Hắn thẹn thùng gọi: “Hoàn muội muội…” Đây là lối xưng hô mà hắn từng dùng với tôi ngày trước, bây giờ gọi lại nghe gượng gạo vô cùng, bản thân tôi cũng cảm thấy đường đột. My Trang hơi biến sắc nhưng chỉ nhìn hắn không nói gì. Ôn Thực Sơ hoàn toàn không phát hiện ra. “Muội cũng bảo trọng, khi nào có cơ hội, ta nhất định sẽ tới thăm muội ngay.”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Sau khi vào chùa Cam Lộ, ta sẽ không còn là người trong chốn hồng trần, ở một thế giới khác hẳn với đại nhân, chúng ta thực không tiện qua lại nữa. Đại nhân nếu như có lòng, xin hãy giúp ta chăm sóc Công chúa, lo cho tỷ tỷ, đó cũng là tâm nguyện duy nhất của ta bây giờ.”

    Nét đau đớn trong mắt hắn càng thêm nồng đậm, phía sau lưng, Cận Tịch khẽ kéo áo tôi, thấp giọng nói: “Chúng ta nên đi thôi!”

    Tôi chậm rãi gật đầu, cố dằn lòng, sai phu xe giục ngựa rời đi.

    Phía sau lưng, My Trang và Ôn Thực Sơ vẫn đứng giữa màn mưa, dùng ánh mắt tiễn chúng tôi rời đi, đây là ấn tượng cuối cùng mà cuộc sống bốn năm trong hậu cung lưu lại cho tôi.
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Quyển 4

    [​IMG]

    Chương 1: Cam Lộ Mạc Sầu

    Khi chúng tôi tới chùa Cam Lộ thì trời đã về chiều, ngôi chùa tọa lạc nơi ngoại ô kinh thành này là đệ nhất Phật tự của Đại Chu, được xây dựng trên một đỉnh núi rộng và thoáng đãng, bên trong là điện đường hùng vĩ, uy nghi, mái cong cao vút, nhìn rất có khí thế.

    Vừa xuống xe ngựa, một làn gió núi lập tức thổi tới khiến toàn thân tôi lạnh toát. Hoán Bích và Cận Tịch vội vàng thu dọn hành lý rồi cùng nhảy xuống xe, mỗi người đứng một bên đỡ lấy tôi. Cận Tịch thấp giọng nói: “Gió núi trong độ tháng Mười này đã lạnh lắm rồi, nương tử vừa mới sinh nở, đừng để bị cảm lạnh.”

    Sau khi rời cung, nàng ta không gọi tôi là “nương nương” nữa, sợ tôi thương tâm phiền não, vả lại thân phận của tôi bây giờ quả thực không rõ ràng, do đó đành tạm gọi là “nương tử”. Trong lúc trò chuyện, nàng ta đã khoác lên người tôi một chiếc áo choàng dài.

    Vầng tà dương sắp lặn treo trên vách núi dựng đứng phía đối diện đỏ rực tựa màu máu, khiến nửa bầu trời nhìn như bị lửa thiêu, làm cho người ta cảm thấy bức bối, khó chịu vô cùng. Ánh hoàng hôn mờ mịt hệt như một làn sương mù dần lan tỏa, những ngọn núi xung quanh đều trở nên nặng nề, từ trong ngôi chùa cổ bị che khuất bởi những gốc tùng lớn có tiếng chuông thong thả vang xa, kèm với đó là mây khói lượn lờ, khiến trái tim vốn phập phù của người ta dần trở nên an định.

    Tôi bình tĩnh nói: “Trống chiều chuông sớm, đó chính là cuộc sống của chúng ta sau này.”

    Chúng tôi còn đang nhìn ngó, hai tiểu ni cô trẻ tuổi bước ra, sau khi quan sát chúng tôi một lát bèn hỏi: “Mấy vị có phải vừa từ hoàng cung đến không? Sư phụ trụ trì dặn bọn ta tới đây đưa mấy vị vào chùa.”

    Tôi hơi khom người hành lễ, sau đó liền cùng Hoán Bích và Cận Tịch đi theo sau bọn họ. Đi qua điện chính và điện bên của chùa Cam Lộ, lại đi thêm một hồi lâu nữa, chúng tôi mới nhìn thấy mấy gian nhà trệt thấp bé. Bọn họ dẫn chúng tôi vào, nói: “Đây là nơi ở của mấy vị sau này, mấy vị có thể cất đồ vào bên trong.”

    Mấy gian nhà này tuy nhỏ nhưng có vẻ rất sạch sẽ, ngăn nắp, bên trong kê một chiếc giường lớn, một chiếc bàn, mấy chiếc ghế, nơi góc tường còn có một vại nước, hết sức đơn sơ.

    Hai tiểu ni cô lại nói: “Mời các vị theo bọn ta tới đại điện, sư phụ trụ trì và mọi người đều đã đợi ở đó rồi!”

    Hoán Bích khom người, cười, nói: “Đã làm phiền rồi!”

    Trong đại điện thắp đèn sáng trưng, nghi ngút khói hương, mùi dầu thơm tỏa ra rất nồng. Tôi vừa sinh nở được vài ngày, ngửi thấy thứ mùi này thì hơi khó chịu, bất giác khẽ ho hai tiếng. Trong điện tuy có nhiều người nhưng lại rất tĩnh lặng. Nghe thấy hai tiếng ho kia của tôi, tất cả đồng loạt ngoảnh đầu nhìn qua. Người đứng đầu là một ni cô dáng vẻ hiền hòa, thân thiện, bà ta chậm rãi cất tiếng: “Ngươi tới rồi!”

    Tôi cảm thấy hơi xấu hổ, vội rảo bước đi lên phía trước. Bà ta chỉ vào một chiếc bồ đoàn ở phía dưới, tôi hiểu ý, liền quỳ xuống đó, Hoán Bích và Cận Tịch cũng vội vàng quỳ xuống theo.

    Chỉ nghe bà ta ôn tồn nói: “Trong cung đã ban ý chỉ, vị quý nhân này sẽ để tóc tu hành. Có điều, đã vào cửa Phật rồi, nhất định phải tuân thủ giới luật.” Thế rồi bà ta liền giảng giải về thanh quy giới luật, sau đó mới nói: “Bần ni pháp hiệu Tĩnh Ngạn, là trụ trì của chùa này. Ngươi đã vào chùa rồi, tất nhiên phải xa cách hồng trần, cũng không còn là quý nhân trong cung nữa, không thể dùng lối xưng hô cũ được, bần ni sẽ đặt một pháp hiệu cho ngươi.” Dừng một chút, bà ta nói tiếp: “Các đệ tử của bần ni pháp hiệu đều dùng chữ ‘Mạc’ làm đầu.” Bà ta khẽ buông tiếng thở dài. “Trông ngươi giữa nơi ấn đường thấp thoáng nét sầu, vậy hãy đặt hiệu là ‘Mạc Sầu’ đi.”

    Mạc Sầu, nghe chẳng giống pháp hiệu của một tỷ khâu ni[1] gì cả, nhưng tôi không tiện dị nghị, chỉ đành vâng lời, trong lòng bất giác dâng trào cảm giác buồn bã.

    [1] Tỷ khâu ni là từ dùng để chỉ những vị nữ tu Phật giáo, về mặt ý nghĩa thì hoàn toàn tương đồng với ni cô – ND.

    Còn nhớ hồi nhỏ tôi cùng ca ca ngồi học trong thư phòng, mùa hè trời nóng nực khiến người ta mơ màng buồn ngủ, đã thế phu tử còn toàn giảng về Tứ thư, ũ kinh buồn chán chết người, nói cái gì mà “Kinh thi ba trăm bài, đọc rồi không suy nghĩ bừa bãi… Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, ấy là nói về cái đức của người làm phi tần, tiểu thư là thiên kim khuê các, không thể không ghi nhớ kĩ…”

    Tôi miệng cứ “ưm ưm a a” ngoan ngoãn đáp lời, nhưng nhìn bộ râu dài không ngừng đung đưa của phu tử, cặp mắt tôi chừng như khép lại đến nơi.

    Dưới giàn nho mùa hè, vầng dương rực rỡ như ánh lên một màu trắng toát, chúng len qua kẽ lá chiếu xuống vô số đốm nhỏ, tạo thành những bóng trắng hoặc tròn hoặc không tròn trên mặt đất, tựa như những bông tuyết còn chưa tan.

    Mùa hạ thật dài, tưởng chừng không thể nào hết được. Lũ ve sầu không ngừng kêu vang, tiếng sau dài hơn tiếng trước, như thể muốn so kè với ánh nắng ban ngày xem thứ nào khiến người ta chán ghét hơn. Ngủ trưa dậy, đầu óc tôi đã tỉnh táo nhưng lại không muốn mở mắt. Ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích của con gái, tôi đoán hẳn là Lưu Chu và Hoán Bích đang chơi chọi cỏ, nếu không thì cũng là Phân Nhi đang làm nũng nhờ mấy gã người hầu bắt dế giúp cho.

    Ca ca không biết đã vào từ bao giờ, mỉm cười, cầm một cuốn sách gõ nhẹ vào đầu tôi. “Còn giả vờ ngủ nữa, nhìn xem ta mang thứ hay ho gì đến cho muội này.” Thứ hay ho cái gì chứ, chẳng qua chỉ là một tập thơ từ thời Nam Bắc triều. Ca ca cười, nói: “Phu tử giảng bài khô khốc như vậy, đừng nói là một đứa con gái như muội, đến ta cũng thấy buồn ngủ. Tập thơ từ cung đình này ta khó khăn lắm mới tìm được, muội giữ lấy mà xem… Có điều, nhớ đừng để mẹ biết, kẻo lại bị mắng cho một trận.”

    Thế là tôi bèn giấu nó đi như giấu báu vật, vì đề phòng bị mẹ phát hiện, trước lúc ngủ mới lén mở ra xem một, hai bài, đọc nửa hiểu nửa không nhưng lòng vẫn say mê, nơi khóe miệng như thoang thoảng hương thơm, ngày đêm lẩm bẩm. Sáng sớm ngủ dậy, Lưu Chu trêu tôi: “Tiểu thư đọc sách đến si mê rồi, đêm qua ngủ mơ còn nói cái gì mà ‘đất Lạc Dương cô gái Mạc Sầu’. Mạc Sầu? Tiểu thư biết một vị tiểu thư có tên như vậy ở Lạc Dương sao?”

    Lưu Chu, Lưu Chu, từng lời nói, tiếng cười ngày đó dường như vẫn văng vẳng bên tai, cứ nghĩ tới là lòng tôi lại đau nhói.

    Phải rồi, “đất Lạc Dương cô gái Mạc Sầu” là lời trong bài Mạc Sầu ca[2], ngày xưa tôi từng thích nhất bài thơ này.

    [2] Một tác phẩm của Lương Vũ Đế Tiêu Diễn thời Nam Bắc triều – ND.

    Khó khăn lắm mới chờ được My Trang tới chơi, tôi vội kéo tỷ ấy lại, chậm rãi đọc từng câu cho tỷ ấy nghe, bộ dạng như vừa có được một món bảo bối. “Nước Hoàng Hà về đông chảy mãi, đất Lạc Dương cô gái Mạc Sầu, mười ba biết dệt lụa màu, năm lên mười bốn hái dâu ngoài đồng, mười lăm tuổi lấy chồng Lư thị, mười sáu sinh con quý A Hầu. Lư gia lan quế đẹp sao! Uất kim, tô hợp ngạt ngào mùi hương. Mười hai hàng trâm vàng cài tóc, hài tơ thêu ngũ sắc chân mang. San hô rực rỡ bóng gương, nô tỳ đứng cạnh nhắc rương đựng giày. Giàu sang kể có ai bì được, đời người còn nguyện ước gì sao? Hờn kia ôm tự thuở nào, nhà bên đông chẳng gả vào Vương gia[3].”

    [3] Đây là toàn bài Mạc Sầu ca, tên khác là Hà trung chi thủy ca, dịch thơ: Lang Xet Tu. Nguyên văn Hán Việt: Hà trung chi thủy hướng đông lưu, Lạc Dương nữ nhi danh Mạc Sầu. Mạc Sầu thập tam năng chức khỉ, thập thứ thải tang nam mạch đầu. Thập ngũ giá vi Lô gia phụ, thập lục sinh nhi tự A Hầu. Lô gia lan thất quế vi lương, trung hữu uất kim tô hợp hương. Đầu thượng kim sai thập nhị hành, túc hạ ti lý ngũ văn chương. San hô quải kính lạn sinh quang, bình đầu nô tử đề lý tương. Nhân sinh phú quý hà sở vọng, hận bất giá dữ đông gia Vương – ND.

    My Trang đã đọc hai cuốn Nữ tắc và Nữ huấn đến thuộc làu nhưng lại không chú tâm lắm tới mặt thơ từ. Vào những lúc thế này, tỷ ấy thường ngồi dưới cửa sổ, tập trung vào việc thêu những bức hình đẹp đẽ, lúc thì là “Ngũ phúc phùng thọ”, lúc lại là “Ngọc đường như ý”, những cuộn chỉ màu rực rỡ xung quanh như càng tôn lên dáng vẻ đoan trang, điềm đạm của tỷ ấy. Năm đó, tỷ ấy mới mười hai tuổi nhưng đã có được khí độ trầm tĩnh mà một tiểu thư khuê tú nên có rồi. Tôi thì được cha nuông chiều quá, thành ra tính cách có phần bướng bỉnh.

    Tỷ ấy lẳng lặng nghe xong, khẽ mỉm cười với tôi, nụ cười ấy hệt như một bông sen trắng thuần khiết đột nhiên nở rộ giữa đầm nước xanh biếc, vầng hào quang mà bông sen ấy tỏa ra không khác gì ánh ngọc, vượt hẳn lên sóng nước rì rào, rực rỡ không gì so được.

    Tỷ ấy buông kim chỉ xuống, cẩn thận rửa tay, nói: “Ta nghe không hiểu lắm, chỉ cảm thấy số của Mạc Sầu đúng là tốt thật. Bản thân đa tài đa nghệ, chồng là quý tử nhà giàu, mười sáu tuổi đã sinh được con trai, tất nhiên có được địa vị vững chắc ở nhà chồng, ra vào đều có kẻ hầu người hạ, phú quý phi phàm.” Thoáng dừng lại, tỷ ấy mỉm cười, nói tiếp: “Có được tao ngộ như vậy, ấy chính là kết quả tốt nhất đối với một nữ tử trên thế gian này rồi. Hoàn Nhi, nếu sau này muội và ta được như Mạc Sầu, thực cũng không mong gì hơn nữa.”

    Phải rồi, tất cả những sự trông mong trong khuê các của chúng tôi lúc đó chẳng qua là có được một tình lang như ý, được sống một cuộc đời bình an, sung túc mà thôi.

    Thế nhưng My Trang chợt cau đôi mày thanh tú. “Có điều, ta thực không hiểu nổi, cuộc sống của Mạc Sầu tốt đến thế, cô ấy còn điều gì không thỏa mãn nữa? ‘Hờn kia ôm tự thuở nào, nhà bên đông chẳng gả vào Vương gia’, cô ấy thực không nên than thở như vậy!”

    Mạc Sầu, Mạc Sầu, tôi cười, nói: “Mạc Sầu được gả vào nơi phú quý nhưng cả bài thơ lại chẳng hề nói phu quân của cô ấy anh tuấn, bất phàm thế nào, yêu cô ấy, kính cô ấy ra sao. Nếu gặp phải một phu quân tồi tệ, chẳng hề yêu thương mình, dù có được sống trong nhung lụa thì cũng chỉ là một nữ tử cô đơn giữa chốn hào môn mà thôi. Khi ấy dù sinh được con trai, có được địa vị chính thất thì cũng có gì đáng để vui mừng chứ?”

    My Trang khẽ buông tiếng thở dài. “Nói vậy cũng phải, kẻ phú quý cũng có sự khó xử của kẻ phú quý, tóm lại, mỗi người trên đời này đều có nỗi khổ riêng.”

    Tôi học theo lời hát kịch, cất tiếng ngâm nga: “Than nhân gian chuyện chẳng bao giờ toàn vẹn, nay mới tin, dù vợ chồng ân ái, lòng tất vẫn còn nỗi bất bình.”

    My Trang “úi chà” một tiếng, đứng dậy làm bộ định đánh tôi. “Con gái con lứa, vừa đọc một bài thơ linh tinh rồi, bây giờ lại hát thứ lời kịch chẳng đâu vào đâu này, chẳng có chút dáng vẻ của một thiên kim khuê các, còn ra thể thống gì nữa?”

    Tôi vội xoay người, nấp sau bức bình phong, cười nói: “My tỷ tỷ tha cho muội lần này đi, muội chẳng qua chỉ nhất thời ham chơi mà thôi!” Tôi cười đến rát cả cổ họng, không ngớt phân bua: “Muội không cố ý dùng lời này để chế nhạo tỷ tỷ đâu.”

    My Trang chỉnh lại quần áo, ngạo nghễ nói: “Đương nhiên rồi, phu quân của Thẩm My Trang ta nhất định phải là người xuất chúng, bọn ta nhất định sẽ sống bên nhau đến lúc đầu bạc răng long.” Dứt lời, ngay đến khóe mắt của tỷ ấy cũng bất giác đỏ lựng.

    My Trang của ngày đó thực kiêu ngạo biết mấy, tự tin biết mấy, hừng hực khí thế biết mấy, trong mắt là những tia sáng rạng ngời, tựa như một gốc linh chi siêu phàm thoát tục, thực khác hẳn với vị Thẩm Tiệp dư lánh đời trong Tồn Cúc đường bây giờ.

    Tôi thầm ngơ ngẩn, bỗng nhớ tới ngày mình rời cung, My Trang đứng phía trong bức tường đỏ rực, dõi mắt nhìn theo tôi tới tận cuối con đường. Sự âu lo và dặn dò khi đó lại hiện lên trong lòng tôi nhưng chỉ còn là một bóng dáng thê lương đứng lẻ loi, cô độc bên dưới chiếc ô của Ôn Thực Sơ.

    Trong những tháng ngày chìm nổi ở chốn hậu cung, bị những cuộc phân tranh không ngừng bám lấy, My Trang nào có từng thật lòng vui vẻ bao giờ.

    Rồi tôi lại nhớ đến quãng thời gian khi mình vừa đắc sủng, nữ tỳ đỡ nhẹ thân ngà, buổi đầu mưa móc mặn mà vua ban[4].

    [4] Trích Trường Hận Ca, Bạch Cư Dị. Nguyên văn Hán Việt: Thị nhi phù khởi kiều vô lực, thủy thị tân thừa ân trạch thời – ND.

    Trong những tháng ngày trẻ trung, sôi nổi ấy, tôi được đấng quân vương sủng ái hết lòng, hoàn toàn chẳng biết cảm giác buồn thương là gì.

    Không biết là buổi sớm hôm nào, độ đó, xe Phượng Loan Xuân Ân liền mạch bảy ngày đưa tôi đến Nghi Nguyên điện, tôi vì ham ngủ, thức giấc muộn hơn so với thường ngày một chút, khi mở mắt thì thấy Huyền Lăng đang ngồi trên giường mỉm cười, chăm chú nhìn tôi. Tôi không khỏi ngạc nhiên, hỏi y tại sao lại tan triều sớm thế.

    Y nhẹ nhàng nằm xuống, ung dung đáp: “Ái khanh ngủ ngon, thực là một bức tranh mỹ nữ say giấc nồng đẹp tuyệt vời, trẫm sao nỡ rời đi để rồi phải nhìn những khuôn mặt lúc nào cũng cứng nhắc của đám thần tử kia.”

    Tôi vừa kinh hãi vừa e thẹn, vội vàng nói: “Như vậy sao được? Thần thiếp đâu quan trọng bằng việc quốc gia đại sự chứ, Hoàng thượng mau mau lên triều đi thôi!”

    Huyền Lăng ngáp dài một cái, đưa ngón tay trỏ tới nhẹ nhàng vuốt ve bờ má tôi, khẽ nở nụ cười. “Hiếm hoi lắm mới có một ngày như vậy, coi như là để các đại thần được dịp nghỉ ngơi, mà trẫm cũng được an nhàn một chút!” Tôi đang định khuyên tiếp, ngón tay trỏ của y đã đặt lên môi tôi. “Nàng cứ ngủ đi. Còn về buổi triều sớm… dù sao cũng đã quá thời gian, trẫm có đi cũng chẳng kịp, chi bằng không đi nữa thì hơn.”

    Tôi đành không nói gì thêm, nằm lặng lẽ trong vòng tay vững chãi của y. Khi đó, xuân về hoa nở, ô cửa sổ sơn đỏ chạm hoa trong Đông thất đang mở hé, từng làn gió dịu dàng thổi tới mang theo hương hoa phảng phất, chầm chậm lan tỏa khắp phòng, tựa như đôi tay ngọc ngà của một người con gái đang nhẹ nhàng vén bức màn lên, khung cảnh hư hư ảo ảo. Sau cơn gió, hoa anh đào ngoài điện rơi lả tả như mưa, từng phiến từng phiến đỏ tươi múa may trong gió, in lên bức màn mỏng manh trong suốt treo giữa điện, vô cùng mê ly.

    Vừa ngẩng lên, tôi đã bắt gặp ánh mắt chứa chan tình cảm của Huyền Lăng, mà ánh mắt ấy chỉ nhìn tôi, khiến cả thân thể lẫn trái tim tôi đều như tan chảy.
    Thế nhưng ngay lúc đó, Phương Nhược lại cung kính gõ cửa, nói là có tấu chương khẩn cấp.

    Huyền Lăng có chút buồn bực, không thể không đi, đành nói với tôi: “Chỉ trách Lý Trường hồ đồ, thường ngày không chú tâm nhắc nhở đám nô tài, khiến bọn chúng không hiểu được một câu nói.”

    Tôi nhất thời không hiểu, lòng tò mò nổi lên, bèn hỏi: “Là câu gì?”

    Huyền Lăng nở một nụ cười giảo hoạt. “Kẻ hầu chẳng báo tên khách sớm, mới được giai nhân tên Mạc Sầu[5].”

    [5] Trích Phú Bình Thiếu Hầu, Lý Thương Ẩn. Nguyên văn Hán Việt: Đương quan bất báo xâm thần khách, tân đắc giai nhân tự Mạc Sầu – ND.

    Tôi cả thẹn, khẽ phỉ phui một tiếng, cúi đầu nói: “Hoàng thượng chẳng đàng hoàng gì cả, chỉ biết trêu người ta thôi!”

    Những ngày tháng đẹp đẽ ấy rốt cuộc chỉ là một giấc mộng hư ảo mà thôi.

    Giờ đây, chỉ còn lại một câu than thở: Bốn mươi năm trọn là thiên tử, chẳng sánh chàng Lư có Mạc Sầu[6].

    [6] Trích Mã Ngôi kỳ 2, Lý Thương Ẩn, dịch thơ Mai Lang, toàn bài: “Ngoài bể nghe đồn có chín châu, kiếp này chưa chắc, chắc chi sau? Chỉ nghe hổ lữ đêm khua mõ, nào thấy kê nhân sáng gọi chầu. Đương độ lục quân cùng đóng ngựa, nhớ đêm thất tịch ngửng cười Ngâu. Than ôi, bốn kỷ trên ngôi báu, mà kém nhà Lư có Mạc Sầu.” Gò Mã Ngôi là nơi Dương Quý Phi tự tử, bài thơ này chế giễu tình yêu của Đường Minh Hoàng chỉ là hư ảo, không đáng tin cậy, đồng thời than tiếc vận mệnh bi thảm của Dương Quý Phi – ND.

    Mạc Sầu dù cả đời không có được tình yêu nhưng ít nhất cũng còn được bình an đến già, có thể ngày ngày ở bên người nhà, con cái. Còn tôi, tình yêu đặt nhầm nơi, nhà tan cửa nát, cha mẹ anh em đều chẳng được yên, ngay đến đứa con gái duy nhất cũng phải rời xa, thực chẳng bằng được một phần vạn của Mạc Sầu!

    Đến bây giờ, ngồi buồn trước gương, mang theo nỗi buồn đi ngủ, lại mang theo nỗi buồn thức giấc, quả thực nên khuyên bản thân một câu “đừng buồn[7]” rồi.

    [7] Cái tên Mạc Sầu mang nghĩa là đừng buồn – ND.

    Đúng lúc tôi đang ngơ ngẩn, Tĩnh Ngạn đưa mắt nhìn Hoán Bích và Cận Tịch sau lưng tôi, nói: “Người trong cửa Phật vốn không nên được người khác hầu hạ, có điều trong cung đã truyền lời xuống, rằng để ngươi học theo tiền lệ trước đây của Thư Quý phi…” Bà ta vội vàng sửa lời: “Tội quá… Là tiền lệ của Xung Tĩnh tiên sư, cứ để hai người bọn họ đi theo ngươi mà cùng tu hành vậy.”

    Hoán Bích và Cận Tịch thoáng lộ nét mừng, lập tức đồng ý. Tôi ngẩng lên, nơi chính điện không thờ Như Lai hay Quan Âm, mà là một bức tượng Địa Tạng Bồ Tát rất lớn. Phía trước tượng Phật có đặt một lò hương đá, bên trên khắc ba chữ “Thiên cổ đấu”. Bên phải chiếc giường đá, dưới lò hương có khắc hàng chữ “Phúc sinh cam lộ địa, Thọ tề ngọc giản thiên”, phía bên trái thì khắc “Lập vào ngày lành mùa đông năm Long Khánh thứ mười”.

    Tượng Phật mang màu vàng rực rỡ, dưới ánh đèn nến sáng trưng lại càng toát lên khí phái trang nghiêm. Nơi đáy lòng tôi bỗng xao động, nhớ tới Lung Nguyệt vừa ra đời, nhất thời buồn khổ không thôi, khẽ nói: “Độ hết chúng sinh, mới chứng quả vị Bồ Đề; địa ngục chưa sạch bóng tội nhân, thề không thành Phật. Ta không vào địa ngục ai vào địa ngục? Bồ Tát quả nhiên Phật pháp sâu dày.”

    Tĩnh Ngạn đưa mắt nhìn tôi, cầm lấy chiếc bảo bình ở ngay cạnh, đưa tay nhúng nước sương trong bình rồi điểm vào trán tôi, nói: “Thích Ca Mâu Ni có lời rằng: ‘Ta vì đại chúng nói lời cam lộ tịnh pháp’, cam lộ có thể hóa giải sự buồn khổ nơi thế gian, ngươi đã rời khỏi chốn hồng trần rồi, mọi sự phiền não đều nên vứt bỏ.”

    Giọng bà ta đầy vẻ xót thương, thần sắc thì rất mực hiền hòa, tựa như có thể nhìn thấu nỗi bất lực của tôi. Tôi khẽ gật đầu, coi như tỏ ý cảm ơn. Bà ta chỉ vào vị ni cô cao lớn vạm vỡ bên cạnh, nói tiếp: “Đây là sư muội ta, pháp hiệu Tịnh Bạch, chưởng quản mọi việc vụn vặt ở chùa này, sau này nếu ngươi có thiếu thứ gì thì có thể tìm đến.”

    Sau mấy lời dặn dò, tất cả liền giải tán.

    Giữa đêm gió lớn, lớp giấy dán cửa sổ bị gió thổi kêu “bùng bục” không ngừng, tựa như tiếng nghẹn ngào khóc lóc. Tôi ngồi trên ghế, Cận Tịch chong đèn, sắp xếp quần áo.

    Tôi khẽ nói: “Có gì đâu mà sắp xếp, chẳng qua là ít đồ lót để thay đổi hằng ngày thôi, từ nay chỉ còn bộ đồ màu xám này theo ta đến già.”

    Cận Tịch không nói, Hoán Bích thì khẽ cười một tiếng, nói: “Pháp hiệu của tiểu thư quả là đặc biệt. Mạc Sầu, không giống như một pháp hiệu bình thường, mà cứ như tên của một vị tiểu thư khuê các vậy.”

    Tôi nói: “Trụ trì chẳng qua muốn nhắc nhở ta rằng đã vào cửa Phật rồi thì đừng nên nghĩ tới những sự ưu sầu phiền não nơi thế tục nữa.” Tôi lẩm bẩm nói: “Chẳng sánh chàng Lư có Mạc Sầu? Phải là ‘kiếp này chưa chắc, chắc chi sau’ mới đúng.”

    Hoán Bích không nghe rõ, tò mò hỏi: “Tiểu thư nói gì vậy?”

    Tôi mỉm cười hờ hững. “Không có gì. Kể từ nay việc quan trọng nhất trong cuộc đời ta là ngày đêm cầu khấn, hy vọng cha anh ở nơi Xuyên Bắc, Lĩnh Nam và Lung Nguyệt ở trong cung có thể được bình an cả đời. Đây là tâm nguyện duy nhất của ta lúc này.”

    Hoán Bích cắn môi, khẽ nói: “Đây cũng là tâm nguyện duy nhất của nô tỳ.”

    Tôi lẳng lặng lắng nghe tiếng gió, gió ở trong núi và gió ở trong cung thực không giống nhau chút nào. Gió nơi cung đình dù có dịu dàng, ấm áp đến mấy, bên trong rốt cuộc vẫn thấp thoáng sự ớn lạnh do âm khí quá nhiều. Còn gió ở trong núi luôn vù vù tràn qua mạnh mẽ. Tôi ngồi đã lâu, thân thể đột nhiên lạnh run từng đợt, nơi bụng truyền tới những cơn đau quặn thắt, tựa như có một con rắn nhỏ đang quậy phá trong đó vậy. Hoán Bích thấy sắc mặt tôi không tốt, vội bước tới, hỏi: “Tiểu thư sao vậy? Sắc mặt người khó coi quá!”

    Cận Tịch nghe thấy động tĩnh, lập tức bỏ dở việc trong tay, bước tới nói: “Nương tử vừa mới sinh nở, trong người còn máu đọng chưa ra hết, hôm nay lại phải ngồi xe ngựa vất vả một phen, e là không ổn lắm!” Nàng ta lộ rõ vẻ nôn nóng. “Nước trong lò còn chưa sôi, cần phải đi tìm một ít đường đỏ về hòa với nước nóng uống nữa, như vậy mới hiệu nghiệm.”

    Tôi thầm cảm thấy bất an nhưng không thể không tỏ ra kiên cường. “Trong thời gian ngắn thì tìm đâu ra đường đỏ chứ, cứ để ta nhịn một chút là được.”

    Cận Tịch vội nói: “Những bệnh vặt trong thời gian ở cữ không thể xem thường, chỉ sơ sẩy một chút thôi cũng có thể lưu lại mầm bệnh cả đời đấy!” Nói rồi, nàng ta liền đứng dậy. “Nô tỳ tới chỗ ni cô ở phòng kế bên hỏi xin một ít vậy!”

    Cận Tịch khoác áo đứng dậy ra ngoài, Hoán Bích vội đỡ tôi nằm xuống, đắp cho tôi mấy lớp chăn bông. Tôi thầm lo lắng, cuộc sống trong chùa tất nhiên không thể so với trong cung, thân thể tôi còn chưa bình phục hẳn, thành ra làm liên lụy đến Cận Tịch và Hoán Bích phải vất vả chăm sóc, nghĩ như vậy, cơn đau trong bụng lại càng dữ dội.

    Chẳng biết đã qua bao lâu, cửa mở ra kêu “két” một tiếng, Cận Tịch đã về, nàng ta cất giọng bất lực: “Giữa đêm khuya, chắc mọi người đều đã ngủ rồi, không ai chịu mở cửa, đừng nói gì tới việc cho ít đường đỏ.” Sau đó, nàng ta lại hạ thấp giọng: “Ta vừa đi tìm Tịnh Bạch sư phụ, bị bà ta quát cho mấy câu, có điều tạm thời vẫn chưa dám làm kinh động tới sư phụ trụ trì.”

    Hoán Bích nghĩ là tôi đã ngủ, thấp giọng thở dài, nói: “Vừa rồi sư phụ trụ trì còn nói là học theo tiền lệ của Thư Quý phi, ai ngờ vừa mới xoay người đi là ngay đến canh nóng, nước nóng cũng chẳng có.”

    Tôi loáng thoáng nghe thấy vậy, lại càng cảm thấy khó chịu.

    Đột nhiên Cận Tịch nghĩ đến điều gì, bèn xoa tay, mừng rỡ nói: “Bên dưới gốc cây lớn phía đằng xa kia có một gian nhà đơn độc, chẳng biết là của vị sư phụ nào, để ta tới đó một chuyến thử xem.”

    Hoán Bích vội cất tiếng ngăn lại: “Hồi chiều tối nghe hai tiểu ni cô dẫn đường nói, người sống ở đó là một vị ni cô tính tình cổ quái, bình thường không có ai dám dây tới. Nên đi tìm người khác thì hơn.”

    Cận Tịch nói: “Vừa rồi người khác không chịu mở cửa, bây giờ chỉ e lại càng không chịu. Ta cứ đi xem thử đã rồi tính sau.” Sau đó, nàng ta lại dặn dò: “Đợi nước sôi nhớ đun thêm siêu nữa, để tiện cho nương tử lau rửa người.”

    Một lát sau, Cận Tịch vẫn chưa trở về, thân thể tôi càng giá lạnh hơn. Chợt nghe cánh cửa bị đẩy mạnh, phát ra một tiếng “rầm” rất lớn. Một bóng người màu trắng đột ngột bước vào cùng làn gió lạnh, Hoán Bích kinh hãi kêu lên: “Là ai đó?”

    Người đó không trả lời, chạy thẳng đến trước giường của tôi, đưa tay sờ lên trán rồi lại bắt mạch cho tôi, tư thế thô lỗ nhưng nhanh nhẹn, một lát sau liền nhìn tôi, lạnh lùng nói: “Ngươi vừa mới sinh nở, phải vậy không?”

    Tôi gắng gượng ngẩng đầu, thấy người đó mặt mũi khá dữ dằn nhưng cũng có mấy phần nhan sắc, chỉ là nhan sắc đó sớm đã bị băng sương bao phủ, trông vô cùng lạnh lùng. Tôi thấy bà ta ăn mặc theo lối ni cô, đoán chừng cũng là đồng môn trong chùa, bèn ra hiệu bảo Hoán Bích đừng sợ, cố gắng cất tiếng: “Đúng vậy, đến hôm nay đã là ngày thứ ba rồi!”

    Bà ta khẽ “hừ” một tiếng, khuôn mặt lộ rõ vẻ xem thường, nói: “Sinh con cho đám nam nhân thối tha kia làm gì chứ! Đáng đời!” Nói rồi liền lấy một bọc đồ cất trước ngực ra, vứt xuống đầu giường. “Chỗ này đủ cho ngươi uống rồi!”

    Hoán Bích vội mở ra xem, lập tức mừng rỡ bật thốt: “Là đường đỏ! Dễ chừng phải có tới ba, bốn cân đấy!”

    Người đó không phản ứng, lại lấy ra thêm mấy lát gừng tươi, hờ hững nói: “Ngậm vào miệng đi, thứ này có thể phát nhiệt.”

    Nói xong, bà ta liền giống như đang giận ai, rảo bước thoăn thoắt rời đi như một làn gió.

    Sau đó, Cận Tịch chạy vào, thở hồng hộc nói: “Người đó đi nhanh quá, nô tỳ không thể theo kịp.”

    Tôi hỏi: “Bà ta chính là người có tính tình cổ quái kia sao?”

    Cận Tịch đáp “vâng” rồi lại nói: “Nô tỳ chẳng còn cách nào, chỉ đành tìm đến van nài một phen, ai ngờ bà ta vừa nghe nô tỳ nói xin đường đỏ để cứu người, lập tức mở cửa ngay.”

    Hoán Bích đỡ tôi dậy, cho tôi uống một chén nước đường đỏ rất đặc, nói: “Giữa chốn Phật môn mà không ngờ đám ni cô ở ngay kế bên lại không chịu tới giúp đỡ một chút, thực khiến người ta nguội lòng. Nô tỳ cứ ngỡ người xuất gia lấy từ bi làm đầu, chẳng ngờ lại giống hệt đám người trong cung.”

    Tôi lắc đầu cười gượng. “Chúng ta bị phế bỏ tước vị và trục xuất khỏi cung đình, là người mà Hoàng thượng đã ruồng bỏ, sao dám so với Thư Quý phi được. Bà ấy tự nguyện xin rời cung, để tóc tu hành với thân phận Quý thái phi, tất nhiên khác hẳn chúng ta rồi!” Hoán Bích thoáng lộ vẻ buồn bã, tôi sợ nàng ta khó chịu thay tôi, liền chuyển chủ đề: “Vị ni cô vừa rồi mặt mũi tuy lạnh lùng nhưng quả là một người tốt bụng hiếm có.”

    Thế rồi bèn ngậm một lát gừng tươi, thầm nghĩ tới Lung Nguyệt của tôi, sau đó mơ màng chìm vào giấc ngủ…
     
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 2: Vẳng nghe chim hót người tỉnh mộng
    Xung quanh chùa Cam Lộ toàn là rừng rậm, mây khói phủ đầy, cực kỳ yên tĩnh, vắng vẻ. Tôi ngủ ngon được chừng nửa ngày, nỗi đau đớn trong thân thể đã dần dịu bớt.

    Trụ trì thấy thân thể tôi không được khỏe lắm thì tỏ ra có chút xót thương, dặn dò tôi nghỉ ngơi cho tốt, không phải để tâm tới chuyện gì khác. Tôi cứ ngủ li bì cả ngày, không để ý tới mọi chuyện trong chùa, cũng chẳng biết Cận Tịch và Hoán Bích rốt cuộc đang làm những gì.

    Chỉ biết rằng hai người bọn họ đều không thường xuyên ở bên cạnh tôi, nơi khóe mắt cũng dần xuất hiện những tia mỏi mệt.

    Tôi thực sự cảm thấy không đành lòng.

    Ngày đó trong Đường Lê cung, các cung nhân hầu hạ tôi, ai nấy đều van nài được xuất cung với tôi.

    Lưu Chu chết sớm, Hoán Bích tất nhiên phải đi theo tôi. Bởi Hoán Bích vốn là a hoàn tùy giá theo tôi vào cung, nếu ở một mình trong cung, sau này nhất định sẽ bị ức hiếp rất nhiều.

    Tiểu Liên Tử và Tiểu Doãn Tử đều là người có khiếm khuyết, rời cung rồi thì coi như mất nơi nương náu, huống chi ở trong chùa Cam Lộ cùng một đá ni cô cũng không tiện chút nào.

    Lung Nguyệt đã được giao phó cho Kính Phi, tất nhiên một vài người bên phía tôi cũng phải đi theo qua đó, hầu hạ Lung Nguyệt giống như hầu hạ chủ nhân trước đây của mình. Chắc hẳn Kính Phi có ý an ủi tôi, đã dẫn Phẩm Nhi, Bội Nhi và Tiểu Liên Tử đi.

    Như vậy tôi cũng yên tâm, Tiểu Liên Tử dù sao cũng có chút công phu, tính tình lại trung hậu, có y ở bên cạnh Lung Nguyệt, kẻ khác có muốn bày mưu hãm hại nó nhất định cũng sẽ không dễ dàng đắc thủ.

    My Trang cũng đã gọi Tiểu Doãn Tử tới cung của tỷ ấy hầu hạ. Trước đây, Tiểu Doãn Tử là thái giám được việc nhất bên cạnh tôi, sau khi tôi rời cung, nhất định sẽ phải chịu không ít sự hạch sách, đày đọa, My Trang lại thích sự thông minh, nhanh nhẹn của y, mong là từ nay, y có thể trở thành cánh tay phải, giúp tỷ ấy mọi việc.

    My Trang và Lung Nguyệt chính là hai người mà tôi không yên tâm nhất trong cung.

    May mà My Trang có Thái hậu che chở, kẻ khác chắc cũng chẳng dám làm gì. Mà tôi cũng đã ngầm nhờ cậy Ôn Thực Sơ và Tiểu Doãn Tử, bọn họ nhất định sẽ dốc sức bảo vệ cho My Trang được an toàn.

    Còn Lung Nguyệt thì vì Kính Phi không có con nên nhất định nó sẽ được coi như con đẻ. Nàng ta vốn giao hảo với tôi, địa vị lại cao, quan hệ với mọi người trong cung cũng tốt, là lựa chọn tốt nhất để nuôi dưỡng Lung Nguyệt.

    Duy có Cận Tịch, nàng ta nhất quyết muốn theo tôi rời cung, đây là điều mà tôi không lường trước được.

    Trong số các cung nữ, nàng ta cũng khá có thân phận, là Ôn nhân chính ngũ phẩm, trước đây lại từng hầu hạ thái phi, quả thực không cần phải theo tôi đi chịu khổ.

    Tôi vốn nghĩ tệ nhất thì cũng để nàng ta đi theo Kính Phi chăm sóc Lung Nguyệt, nhưng nàng ta lại trần tình với tôi: “Công chúa có Kính Phi nương nương chăm sóc là đã muôn phần ổn thỏa, nô tỳ quả thực không muốn ở chỗ Kính Phi nương nương mà làm vướng tay vướng chân. Nương nương sắp đi tu hành, nhất định không thể thiếu người hầu hạ, một mình Hoán Bích cô nương làm sao đủ được, dù gì cũng không thể để cô ấy chịu khổ một mình. Nô tỳ từ nhỏ đã mang lòng hướng Phật, đây thực là cơ hội tốt nhất, chỉ mong nương nương đừng chê nô tỳ vụng về, nể tình nô tỳ mấy năm nay đã dốc lòng dốc sức chăm sóc nương nương mà dẫn nô tỳ đi cùng.”

    Nàng ta đã nói như vậy, tôi cũng không tiện thoái thác, đành dẫn nàng ta đi cùng. May mà Cận Tịch thông minh, tháo vát, có thể giúp đỡ tôi rất nhiều, hơn nữa còn thường xuyên lựa lời khuyên nhủ, giúp tôi bớt cô độc.

    Hôm ấy, Cận Tịch đang ngồi trong phòng cúi đầu khâu áo, tôi thì cẩn thận xâu từng viên gỗ lim làm thành tràng hạt.

    Ánh dương dìu dịu chiếu vào phòng qua ô cửa sổ, tựa một lớp vải mỏng manh, hết sức nhẹ nhàng, êm ái. Trên bàn đặt một bức tượng Quan Âm làm bằng gốm trắng, vẻ mặt hiền từ, khiến người ta vừa nhìn đã thấy ấm áp, thực rất có dáng vẻ đại từ đại bi phổ độ chúng sinh. Trong bát hương đặt trước tượng Quan Âm có ba nén hương đang cháy, khói hương vấn vít tỏa ra, như sương như khói.

    Cận Tịch cười, nói: “Hôm nay tinh thần nương tử không tệ, chi bằng chúng ta cùng ra ngoài đi dạo một lát. Phong cảnh xung quanh chùa Cam Lộ xưa nay vốn nổi danh, cũng nên đi xem thử.”

    Cận Tịch ân cần như vậy chẳng qua là muốn giúp tôi xua bớt nỗi u buồn, tôi sao có thể không biết, bèn đồng ý, hai người cùng cất bước ra ngoài đi dạo.

    Ngoài kinh đô núi non trùng điệp, liền thành một dải, như tạo thành bức bình phong xanh biếc. Nơi cao thì đâm vào tới tận mây, nơi thấp thì tựa như cánh tay ngọc ngà của mỹ nhân uốn lượn. Mà trong số các đỉnh núi, phong cảnh ở đỉnh Phiêu Miểu, đỉnh Tha Nga, đỉnh Cam Lộ, đỉnh Lăng Vân là nổi tiếng nhất, đỉnh Phiêu Miểu và đỉnh Tha Nga đối diện nhau từ xa, đỉnh Cam Lộ, đỉnh Tha Nga và đỉnh Lăng Vân thì dính liền, giữa những đỉnh núi mây mù bao phủ, phong cảnh đẹp đẽ vô cùng.

    Giữa nơi núi non biêng biếc, mây khói như bao phủ khắp nơi, mang tới cho người ta cảm giác không chân thực, dường như cả con người đều hòa mình với thiên nhiên. Tôi đứng ngắm cảnh từ xa, nỗi buồn cùng sự mỏi mệt khi rời cung lại trào dâng trong lòng, lan tỏa khắp thân thể. Trái tim trở nên trống rỗng, tôi hờ hững nói: “Cận Tịch, nếu nửa đời sau, chúng ta có thể bình yên sống trong chùa Cam Lộ thế này, ta cũng không còn mong cầu gì hơn.”

    Cận Tịch dịu giọng nói: “Chúng ta đã xa rời chốn thị phi rồi, chắc hẳn chuyện thị phi sẽ không tìm tới chúng ta nữa. Nương tử cứ yên tâm!”

    Gió núi rất mạnh, cuốn góc chiếc áo ni cô màu xám của tôi lên, nhìn như một cánh bướm già nua đang đập cánh một cách mỏi mệt. “Nếu có thể cả đời bầu bạn bên ngọn đèn dầu và tượng Phật, ta cũng coi như được thanh tịnh rồi!”

    Cận Tịch khẽ thở dài một tiếng. “Hoàn cảnh bây giờ coi như không tệ. Với tình hình khi đó, nếu nương tử không tự nguyện xin xuất gia, hoặc là sẽ bị ban cho cái chết, hoặc là sẽ bị đày vào lãnh cung, cũng có thể Hoàng thượng trong cơn giận dữ sẽ cho phong tỏa Đường Lê cung, giam cầm nương tử trong đó suốt đời suốt kiếp. Mà nếu có kẻ ném đá xuống giếng, kết cục của nương tử nhất định sẽ thảm hơn bây giờ nhiều.”

    Tôi cắn chặt môi, sự chán ghét và oán hận nơi đáy lòng cơ hồ không thể nào kiềm chế được. “Tử Áo Thành nhơ nhuốc và đen tối đến vậy, ta mong rằng mình cả đời không bao giờ quay trở lại đó. Chỉ đáng thương cho Lung Nguyệt của ta, kiếp này e là chẳng có duyên gặp lại ta thêm lần nào nữa.”

    Cận Tịch giữ lấy hai bờ vai đang khẽ run rẩy của tôi, đôi tay hết sức mạnh mẽ và kiên định. “Nương tử có thể sống sót mà rời khỏi nơi đó, đây là điều không phải ai cũng làm được. Xin nương tử hãy tin rằng, có lúc cả đời không thể gặp mặt cũng coi như là một sự bảo vệ. Công chúa như thế, mà với người nhà của nương tử cũng như thế.” Cận Tịch thở dài, nói tiếp: “Chỉ mong nương tử suy nghĩ thông suốt, rồi sau này đêm đêm có thể ngủ ngon.”

    Sao tôi có thể không hiểu lời của Cận Tịch nhưng từ sau khi vào chùa Cam Lộ đến giờ, tôi nào đã từng có được một giấc ngủ ngon. Rất nhiều đêm tôi gần như trơ mắt nhìn bầu trời từ lúc sâm sẩm tối đến khi lộ ra màu bụng cá buổi ban mai. Những tia sáng chiếu lên lớp giấy dán cửa sổ biến đổi từng chút một, lúc sáng lúc tối, nhưng chỉ cần là một chút biến hóa nhỏ nhoi, tôi cũng có thể nhận ra rõ ràng.

    Biết bao lần tôi từng cắn chặt bờ môi giữa màn đêm đen tưởng chừng không có điểm tận cùng, đôi bàn tay nắm chặt, hoàn toàn không phát hiện ra môi mình đã bị cắn rách, lòng bàn tay cũng bị móng tay cắm sâu đến rỉ máu, cố quên đi những sự không cam tâm và nhục nhã của bản thân. Nhưng tôi thực sự chẳng làm gì hơn được, chỉ biết trơ mắt nhìn chúng ngang ngược cắn xé trái tim vốn đã tơi tả của mình, cho đến khi nó hoàn toàn tan nát.

    Biết rõ là không thể phản kháng, tôi chỉ còn cách chịu đựng.

    Tôi đêm đêm không thể ngủ ngon, Cận Tịch tất nhiên biết rõ. Tôi còn thường xuyên nghe thấy Hoán Bích vùi đầu trong chăn khóc thầm, khóc cho cha mẹ và huynh trưởng ở trời Nam đất Bắc xa xôi, khóc cho tẩu tẩu và Trí Ninh vừa gặp cơn tai họa.

    Đêm dài đằng đẵng, leo lét đèn thu. Vốn đang độ hoa thu thảm đạm cỏ thu úa vàng, đêm thu dài miên man vô tận, dường như vĩnh viễn chẳng bao giờ đợi được tới khi trời sáng. Mà dù trời có sáng, sự tăm tối trong lòng liệu có được chiếu sáng một khoảnh khắc nào chăng?

    Tôi không nói gì, chỉ lặng im.

    Khi chúng tôi trở về phòng, Hoán Bích đang bày cơm và thức ăn lên bàn. Nhìn thấy tôi, cô nàng không kìm được than phiền: “Trụ trì đã đặc biệt dặn dò nhà bếp, nói là tiểu thư còn đang trong thời gian ở cữ, phải đặc biệt chiếu cố, làm cho một số loại thức ăn mặn và nhiều mỡ, ai ngờ những thứ đưa tới vẫn chẳng có lấy một giọt mỡ nào, đừng nói là thức ăn mặn. Nô tỳ và Cận Tịch thì không sao, nhưng tiểu thư còn đang ở cữ, như thế này làm sao được?”

    Đợi Hoán Bích nói xong một tràng liến thoắng, tôi thản nhiên cầm đũa, bình tĩnh nói: “Dù sao cũng là nơi Phật môn thanh tịnh, sao có thể động đến đồ ăn mặn được, ta cũng không muốn mình bị chú ý quá, chỉ cần có thể ăn no là được rồi!”

    “Nhớ lại những ngày bị cấm túc trong Đường Lê cung, ngay đến thức ăn cũng mốc meo cả, chúng ta không phải vẫn ăn được hết đó sao?” Cận Tịch hơi cau mày, lộ vẻ rụt rè. “Nương tử và Hoán Bích cô nương có từng để ý không, trụ trì mang tiếng là trụ trì nhưng tính tình hiền hòa, nhu nhược, không thể sai bảo người khác. Do đó, bà ấy tuy có lòng chiếu cố nương tử nhưng cũng là lực bất tòng tâm.”

    Hoán Bích tiếp lời: “Làm sao lại không nhận ra chứ! Lúc mới đến, bà ấy nói hai người chúng ta chỉ cần hầu hạ tiểu thư là được, nhưng chỉ sau vài ngày, công việc mà đám người Tịnh Bạch sư phụ giao cho chúng ta nhiều thế nào chứ?”

    Cận Tịch nói: “Tiền nhang đèn của chùa Cam Lộ tuy không ít nhưng thường ngày các ni cô trong chùa vẫn phải tự tay giặt giũ quần áo, làm một số việc nặng nhọc. Chúng ta vừa mới tới, rất nhiều việc liền được giao cả cho chúng ta, nhưng giờ đang sống nhờ nhà người khác, chúng ta đương nhiên không thể tranh cãi. May mà mấy việc này nô tỳ và Hoán Bích cô nương làm cũng đã quen, không có vấn đề gì to tát.”

    “Chỉ e…” Hoán Bích nôn nóng nói: “Sau này bọn họ được đằng chân lân đằng đầu, ngay đến tiểu thư cũng phải chịu khổ.”
    Tôi lặng lẽ cúi đầu, nhai cọng rau trong miệng, hờ hững nói: “Ta đã vào chùa Cam Lộ rồi, dù sau này có phải làm một số việc nặng thì cũng là lẽ thường tình thôi!” Tôi nắm lấy bàn tay hai người bọn họ, khẩn thiết nói: “Chỉ khổ cho các ngươi, vì ta mà phải chịu không ít nỗi vất vả.”

    Hoán Bích rơm rớm nước mắt, cúi đầu, nghẹn ngào nói: “Bây giờ người thân bên cạnh muội chỉ còn lại một mình trưởng tỷ thôi, chỉ cần có thể ở bên trưởng tỷ, muội chẳng còn điều gì oán trách.”

    Cận Tịch cũng nói: “Nô tỳ vốn nguyện lòng theo nương tử rời cung, sau này dù có gặp phải bất cứ chuyện gì cũng cam tâm tình nguyện.”

    Tôi thầm cảm động, thổn thức nói: “Từ nay về sau, chỉ còn có ba người chúng ta nương tựa vào nhau thôi!”

    Hoán Bích cúi đầu khóc rấm rứt, nói: “Bọn muội thì không sao, nhưng trưởng tỷ đã gầy đến thế này rồi, muội mà sợ lắm!”

    Hoán Bích vừa dứt lời, tôi đột nhiên nhìn thấy dung nhan của mình hiện giờ. Do đã lâu không soi gương nên lúc này, khi nhìn thấy tấm dung nhan tiều tụy của bản thân trong chiếc gương đồng ảm đạm, ngay đến tôi cũng có chút thẫn thờ và không dám tin, đây chính là tôi sao, là tôi của bây giờ đây sao? Đôi mắt xám xịt như người chết, hai gò má nhô cao. Sự ai oán và đau thương trong mắt đã trầm hẳn xuống, như những hạt cát sau cơn sóng cuộn, ẩn mình vào nơi sâu thẳm bên trong chiếc gương đồng, chẳng hề xao động. Nhìn tôi lúc này như một ao nước mùa thu, dù có bị thứ gì khuấy đảo, dù có xuất hiện muôn vàn gợn sóng thì sau đó cũng sẽ bình lặng trở lại rất nhanh, bình lặng trong sự buồn thương đến nỗi chẳng còn nước mắt để rơi, chẳng thể khống chế được bản thân mình. Người trong gương thực xa lạ biết bao, dù biết rõ đó chính là mình nhưng tôi vẫn khó mà tin nổi đó chính là tôi của ngày hôm nay.

    Dung nhan tôi tuy tiều tụy nhưng dù sao cũng chưa thay đổi nhiều, duy có đôi mắt kia thực sự giống như của một bà già mắc bệnh nhiều năm, lại giống như một bông hoa đã từng nở rộ rồi sau đó lặng lẽ úa tàn, cuối cùng thì chết khô nơi đầu cành giữa làn gió lạnh.

    Đã có lúc vẻ đẹp của tôi chủ yếu đến từ đôi mắt, chúng linh động đẹp đẽ, múa lượn nhẹ nhàng, thoáng làn sóng gợn. Dù buồn hay vui, những tâm sự mà người con gái không tiện dùng lời lẽ biểu đạt, tôi chỉ cần khẽ đưa ánh mắt, sẽ có người tự khắc hiểu lòng tôi.

    Mà trong những cuộc sát phạt trong cung, dù là địch hay bạn, phương thức trao đổi quan trọng nhất vẫn là ánh mắt. Và dần dần, đôi mắt tôi ẩn chứa đầy tâm cơ, có lúc muốn khóc mà bên trong lại ngậm nét cười, đôi khi muốn cười mà mắt lại ngân ngấn ánh lệ, sự trong trẻo, ngây thơ của một thiếu nữ khuê các sớm đã chẳng còn.

    Thậm chí ngay cả khi được đấng quân vương sủng hạnh, thương yêu, những nét phong tình nơi đầu mày cuối mắt cũng đã sinh ra như thế, hoàn toàn triệt bỏ sự vô tri và ngây thơ của người thiếu nữ. Cứ như vậy, sau nháy mắt tôi đã trở thành phụ nữ, sau nháy mắt đã có được cái gọi là sự quyến rũ và phong tình, tất cả mọi thứ đều chỉ tập trung trong đôi mắt ấy thôi.

    Thì ra tôi già đi nhanh như thế, thì ra trái tim của tôi đã chết rồi. Vốn ngỡ rằng việc này chỉ có mình tôi biết, không ngờ, đôi mắt kia chẳng thể giấu giếm được điều gì, sớm đã lộ vẻ già nua, đờ đẫn.

    Thực thê lương mà cũng rất rõ ràng.

    Đêm ấy gió mưa kéo tới, những hạt mưa lạnh băng đập “bộp bộp” vào lớp giấy dán cửa sổ, toàn bộ chùa Cam Lộ chìm trong những âm thanh như tiếng vó ngựa dập dồn. Dòng nước mưa từ trên mái ngói chảy xuống, phát ra âm thanh như tiếng chuông gọi hồn, khiến người ta đau đầu.

    Trong cơn ngơ ngẩn, tôi lại mơ một giấc mơ. Người tôi như bị chia ra làm hai nửa, một nửa tỉnh táo, có một chút ý thức đơn giản và mông lung, nửa còn lại thì đang ngủ, ngủ rất say, như thể vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại.

    Trong cơn mơ màng, khung cảnh xung quanh dường như vẫn là nơi cung cấm, hai bên vĩnh hạng là bức tường đỏ dài miên man, tựa như hai con rồng đỏ rực không ngừng uốn lượn, chẳng có điểm tận cùng. Lớp đá xanh trên vĩnh hạng thực trơn biết mấy, lúc này, Cận Tịch còn đang nắm tay tôi, hai người kề vai sóng bước, như thể chuẩn bị tới Thượng Lâm uyển ngắm cảnh, cũng có thể đang định làm gì khác, lúc này đầu óc tôi rất mơ hồ, chỉ biết bước đi theo tiềm thức. Phía trước chợt thấy Tiễn Thu bước tới, khom người hành lễ với tôi, cười tủm tỉm, nói: “Hoàng hậu nương nương cho mời Hoàn Quý tần tới ngắm hoa, An tiểu chủ cũng đang ở đó, đã chờ nương nương từ lâu lắm rồi!”

    Khuôn mặt Tiễn Thu hình như được trát quá nhiều phấn, nhìn trắng bệch như tuyết, trắng đến nỗi chẳng giống nàng ta lắm, nhìn còn có mấy phần bộ dạng của Hoa Phi. Tôi cười, nói: “Hoàng hậu nương nương đã có lời mời, thần thiếp xin đi ngay đây!” Sau đó, liền cùng Cận Tịch chậm rãi bước đi theo nàng ta.

    Có điều, mới đi được hai bước, phía sau chợt vang lên giọng nói của Lưu Chu. Chỉ thấy nàng ta vội vã chạy tới, dáng vẻ rất nôn nóng, khuôn mặt đỏ bừng, như thể sắp rỉ máu. Nàng ta lớn tiếng kêu lên: “Tiểu thư! Đừng đi! Đừng đi! Không thể đi được đâu!”

    Tôi nói với giọng nghi hoặc: “Lưu Chu, muội đi đâu vậy, lâu lắm rồi ta không gặp muội. Sao trông muội hoang mang thế, định đi làm việc gì sao?”

    Tôi chỉ mới sững sờ một chút, Hoàng hậu và An Lăng Dung đã đi tới trước mặt, đều đang cười rất tươi. Hoàng hậu mặc một chiếc áo gấm đỏ rực, ôn tồn nói: “Hoàn Quý tần, bản cung đã cho mời, sao ngươi còn không mau tới? Trước đây, ngươi đâu có như vậy.”

    Lời của Hoàng hậu tuy đầy vẻ ôn tồn nhưng ý tứ trách móc bên trong lại rất rõ. Tôi hoang mang định quỳ xuống, thế nhưng đầu gối lại đờ ra, không sao quỳ nổi. Tôi lo lắng đến nỗi mồ hôi rỉ ra đầy đầu, bất giác nghiêng đầu nhìn qua bên cạnh, chợt thấy cặp mắt Tiễn Thu chẳng biết tự lúc nào đã trở nên đen ngòm, sâu không thấy đáy, dung mạo sớm đã biến thành của Hoa Phi. Nàng ta nhếch mép, nở một nụ cười lạnh lùng, khẽ cất tiếng: “Sao thế? Hoàn Quý tần, ngươi cũng không muốn quỳ lạy mụ già Hoàng hậu này sao?”

    Tôi thấy cảnh này thì vừa hoang mang vừa sợ hãi. Lăng Dung chợt cười tươi như hoa, vẫy tay gọi: “Tỷ tỷ mau tới đây, Hoàng hậu đối xử với chúng ta tốt nhất mà. Tỷ tỷ mau tới đi, Dung Nhi cũng đang ở đây này.” Cô ả cười rất dịu dàng, nghe như tiếng nhạc nhưng chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác, nụ cười ấy sắc như dao, đang không ngừng cứa vào thân thể tôi, khiến tôi đau đớn vô cùng.

    Bỗng nhiên, Kỳ Tần lẳng lặng bước ra từ sau lưng Hoàng hậu và An Lăng Dung, cất giọng lạnh lùng: “Hoàng hậu nương nương, Hoàn Quý tần không nghe lời như vậy, phải xử phạt thế nào mới được đây?”

    Nụ cười của Hoàng hậu vẫn cao quý mà nền nã, mỗi điệu đưa tay nhấc chân đều toát ra khí độ ung dung của bậc mẫu nghi thiên hạ. Nàng ta mỉm cười, nói: “Hoàn Quý tần rất được lòng Hoàng thượng, bản cung sao nỡ phạt nàng ta chứ? Không chỉ không phạt, còn phải thưởng mới được.” Nàng ta khẽ gọi Lăng Dung lại. “Đi lấy Thư ngân giao tới đây thưởng cho Hoàn Quý tần.” Kế đó liền nói với tôi: “Thư ngân giao có tác dụng dưỡng da rất tốt, Hoàn Quý tần nhớ dùng đều. Hoàng thượng nhìn thấy tấm dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn của Hoàn Quý tần, nhất định sẽ càng thêm yêu quý mà Quý tần cũng có thể sớm sinh hoàng tử cho Hoàng thượng.” Giữa nụ cười hoàn mỹ của Hoàng hậu đột nhiên xuất hiện một vết nứt, giọng nói toát ra vẻ u oán: “Nói không chừng, Hoàn Quý tần dùng Thư ngân giao này xong sẽ càng ngày càng giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu, tỷ tỷ của bản cung đấy, như thế mới thực đáng mừng.”

    Lăng Dung bước đi hết sức nhẹ nhàng, lả lướt, cẩn thận đưa Thư ngân giao tới trước mặt tôi, má phấn ngậm nét cười. “Tỷ tỷ nhớ dùng đều nhé, lời của Hoàng hậu nương nương nhất định không sai đâu.”

    Tôi sợ hãi kêu ré lên một tiếng, cố sức đẩy Thư ngân giao mà Lăng Dung đưa tới trước mặt ra xa. Lăng Dung chẳng hề để bụng, chỉ mỉm cười rất tươi, ngón tay khẽ quệt vào Thư ngân giao, sắc mặt đột nhiên biến đổi, trở nên vô cùng dữ dằn, ra sức bôi Thư ngân giao vào mặt tôi.

    Cảm giác lạnh toát và thứ mùi thơm mát của Thư ngân giao khiến tôi sợ hãi thét lên, cố sức ngoảnh đầu qua bên cạnh nhưng không hiểu sao bàn tay của Lăng Dung lại có thể chuẩn xác đến thế, tôi có tránh thế nào cũng không được.

    Hoa Phi thản nhiên khoanh tay đứng nhìn, cất giọng u oán mà trống rỗng: “Bây giờ ngươi rõ rồi nhé, đứa con của ngươi bị mất không phải do ta, cũng không phải là do Hoan nghi hương của ta.” Ả ta đột nhiên nổi điên, như khóc như cười, ngón tay chỉ thẳng vào mặt tôi, gằn giọng quát lớn: “Ta không hề hại đứa con của ngươi, người hại đứa con của ta cũng là Hoàng hậu! Chúng ta không biết gì hết, đều không biết gì hết!” Ả ta đập đầu xuống đất, cặp mắt chừng như có thể phun ra lửa, cất tiếng khóc rống lên, điên điên khùng khùng: “Ngươi có Thư ngân giao, ta có Hoan nghi hương, chúng ta sao sinh con được chứ! Chúng ta đều là loại người đáng thương không có con!” Ả ta đập đầu xuống đất đến rách cả trán, dòng máu tươi cuồn cuộn chảy ra, dường như trên gò má, trên quần áo của ả ta xuất hiện vô số bông hoa đào diễm lệ, phong cảnh rực rỡ của tháng Ba mùa xuân lúc này chừng như đều đã tập trung trên người ả, vậy nhưng lại chẳng có chút vẻ đẹp nào, chỉ đầy nỗi thê lương và sợ hãi.

    Hoàng hậu đột nhiên nói với giọng nghẹn ngào, tựa như một người quả phụ trên đò vắng, ai oán tột cùng: “Các ngươi đáng thương? Lẽ nào bản cung không đáng thương? Con của các ngươi chẳng qua chỉ là những thai nhi chưa thành hình mà thôi, còn bản cung thì sao, bản cung đã phải tận mắt nhìn con trai đứt hơi trong lòng mình… Con của các ngươi thì có gì đáng thương chứ!” Những nét xám xịt trên khuôn mặt Hoàng hậu đột nhiên tan biến, rồi nàng ta nở nụ cười tươi. “Hoàn Quý tần, bản cung còn có thứ này tặng cho ngươi nữa đây.” Nàng ta nháy mắt ra hiệu với Kỳ Tần, sắc mặt Kỳ Tần biến đổi hẳn, chậm rãi mở bọc vải gấm màu đỏ đang ôm trước ngực ra, thì ra bên trong là một chiếc áo gấm có thêu hoa văn hình chim công, nhìn rất tao nhã và đẹp đẽ.

    Lăng Dung che miệng cười khẽ, âm thanh vang lên nghe như tiếng hót du dương của chim hoàng oanh, nhưng lọt vào tai tôi thì sắc bén vô cùng: “Tỷ tỷ xưa nay luôn thanh tao, cao quý, mặc chiếc áo này là thích hợp nhất. Lúc mới vào cung, Thuần Nguyên Hoàng hậu đã mặc chính chiếc áo này đấy, tỷ tỷ nhớ phải giữ gìn cẩn thận!” Nói xong, nàng ta liền nháy mắt ra hiệu, Kỳ Tần không cho tôi phân bua, liền trùm chiếc áo đó vào người tôi. Chiếc áo tựa như một tấm lưới rất lớn từ trên trời rơi xuống, trói lấy tôi thật chặt, khiến tôi không thể thoát được, cũng chẳng thể giãy giụa, chỉ biết trơ mắt nhìn bản thân như một con cá bị lọt vào trong lưới, căn bản chẳng có sức mà phản kháng.

    Lòng tôi thầm căm hận nhưng chỉ biết sợ hãi ngoảnh đầu đi, chợt thấy từ cổ Lưu Chu chảy ra những giọt máu đỏ tươi, màu sắc đó khiến đôi mắt tôi như chói lòa. Mặt Lưu Chu đầy nét bi thương, chậm rãi ngoảnh đầu lại, nói: “Tiểu thư, Lưu Chu phải đi đây, không thể hầu hạ tiểu thư được nữa rồi!”

    Tôi nhất thời quên mất mình vẫn đang ở trong lưới, gắng sức gào lên: “Lưu Chu, muội định đi đâu? Sao muội có thể bỏ mặc ta mà đi như thế được!”

    Lưu Chu khẽ nở nụ cười mỉm, nhẹ nhàng cất tiếng: “Tiểu thư, chủ tớ chúng ta tình như tỷ muội nhưng bây giờ tình nghĩa đã đến hồi kết thúc rồi. Thiếu phu nhân và tiểu thiếu gia ở dưới đó cô đơn lắm, không ai chăm sóc, Lưu Chu phải xuống đó hầu hạ bọn họ đây, tiểu thư xin hãy bảo trọng.”

    Tôi nghe mà trái tim như bị một tảng đá nặng nề nện phải, rốt cuộc không kìm được mà bật khóc thành tiếng. Chợt lại thấy tẩu tẩu vẫn nguyên bộ dạng ngày xưa, xinh đẹp, đáng yêu, đang bế Trí Ninh trong lòng. “Trước đây ta vẫn gọi muội là nương nương nhưng giờ đây chúng ta không ở cùng một thế giới nữa rồi, muội chỉ còn là em chồng của ta thôi. Ta với Trí Ninh phúc bạc, không thể theo phu quân nữa, muội và phu quân phải chú ý giữ gìn mới được, đừng để những người đi trước như bọn ta lo lắng.”

    Tiếng khóc của Trí Ninh dường như vẫn còn vang vọng bên tai, tôi bật khóc nức nở. “Tẩu tẩu hãy nói thực với muội đi, chuyện sao lại như vậy?”

    Tẩu tẩu lắc đầu, thở dài không ngớt. “Muội thử nghĩ xem, đang là tháng Mười, sao có thể dễ dàng mắc bệnh sốt rét được đây?”

    Phía bên kia, Lăng Dung chợt nở nụ cười, khẽ phe phẩy chiếc quạt lông trong tay, hờ hững nói: “Hoa đào dù có nở đẹp đến mấy thì rốt cuộc cũng chỉ là vật phàm tục mà thôi, sao có thể so được với sự thướt tha yểu điệu của trúc đào.”

    Tẩu tẩu mỉm cười thản nhiên, đáp lại một câu: “Vậy sao? Đào với trúc đào vốn cùng một họ, hà tất phải tàn sát lẫn nhau! Dù có muốn phân cao thấp thì cũng nên nhìn vào lòng người.”

    Lăng Dung chẳng hề nôn nóng, đưa quạt lên che mặt, cười nhạt, nói: “Đến tính mạng còn chẳng giữ nổi, nói gì tới lòng người! Sự cao thấp, sống chết ở kiếp này đã rõ ràng, Tiết tiểu thư nên suy nghĩ về kiếp sau thì hơn!”

    Trong giấc mộng mơ hồ ấy, Lăng Dung từ đầu đến cuối chỉ gọi tẩu tẩu bằng ba tiếng “Tiết tiểu thư” rõ ràng đến tột cùng.

    Tôi chẳng còn tâm trạng để suy nghĩ đến những sự lạ bên trong, chỉ biết nghẹn ngào khóc lóc. Mái tóc mai đã chớm bạc cùng khuôn mặt già nua của song thân lóe hiện trước mắt tôi, tôi đưa tay muốn chụp lấy mà không sao chụp được, lớn tiếng gào thét cũng chẳng thể gọi về. Dung mạo của ca ca cũng bị chướng khí ở vùng Lĩnh Nam che phủ, càng lúc càng trở nên ảm đạm và không rõ ràng, cuối cùng thì hoàn toàn tan biến.
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 3: Đêm mưa lòng xiết nỗi buồn đau
    Nỗi oan khuất và căm phẫn trong lòng tôi như một con thú bị nhốt trong bẫy không ngừng tả xung hữu đột, cơ hồ muốn đâm thủng một lỗ trên trái tim tôi. Rồi sau đó, chúng hóa thành cái lưỡi lạnh tanh của con rắn độc, quấn chặt lấy thân thể tôi, trườn khắp người tôi. Dường như có ai đó đang bóp chặt cổ tôi, bóp rất mạnh, bóp với nỗi căm hận tới tột cùng, bóp đến mức khiến tôi không cách nào thở nổi. Lồng ngực tôi như đang bị một cây dùi trống không ngừng nện xuống, đau đớn đến mức sắp nứt ra, khiến tôi kinh hãi vô cùng.

    Có tiếng bước chân vội vã vang lên bên tai, rồi sau đó có người đứng bên cạnh không ngừng lay vai tôi. Tôi mơ màng tỉnh dậy, mồm miệng khát khô, đắng ngắt, đến đầu lưỡi cũng như đã dính chặt vào răng. Trái tim tôi khẽ đập một cách yếu ớt, tựa như ngọn đèn dầu lúc tỏ lúc mờ đang đặt trên bàn. Quần áo tôi sớm đã ướt đẫm mồ hôi, dính bết vào cơ thể. Tôi cố gắng đưa tay lên xoa trán, chậm rãi ngồi thẳng người dậy.

    Trong khoảnh khắc ngẩn ngơ, tôi chỉ nghe thấy tiếng những hạt mưa va vào cửa sổ, mang theo đầy sự giá lạnh.

    Mở mắt, nhìn thấy vẻ mặt quan tâm của Cận Tịch và Hoán Bích, tôi thoáng yên tâm hơn, khàn giọng nói: “Ta không sao.”

    Cận Tịch ngồi xuống bên mép giường, xót xa nói: “Nương tử lại gặp ác mộng rồi.”

    Tôi nhất thời chẳng nói được gì, chỉ khẽ xua tay. Hoán Bích ngó quanh bốn phía mà chẳng tìm được canh an thần, đành rót một chén nước nóng, khẽ thổi mấy hơi, đưa cho tôi uống, sau đó lại lo lắng nói: “Tiểu thư cứ bị bóng đè mãi thế này, lại không có thuốc an thần để uống, thân thể biết đến bao giờ mới hồi phục lại đây?”

    Cận Tịch vội vàng an ủi: “Nương tử vừa tới chùa Cam Lộ, không thích ứng với hoàn cảnh xung quanh cũng là lẽ thường tình, chưa chắc đã là chuyện gì nghiêm trọng, chỉ cần nghĩ thoáng một chút là được.”

    Trên mặt tôi vẫn còn vương nước mắt, những giọt nước mắt lớn thấm nhòe trên gối, như những bông hoa mai nhỏ màu đen, hết sức rời rạc và hỗn loạn. Tôi đưa tay gạt nhẹ, chợt thoáng sững ra, miễn cưỡng nói: “Đúng là như trẻ con vậy, đến nằm mơ cũng khóc.”

    Từ khi vào chùa Cam Lộ đến giờ, tôi rất ít khi khóc. Sự khó chịu và căm phẫn chưa từng giảm bớt, nỗi nhung nhớ và lo lắng cho người thân cũng ngày một tăng thêm, thế nhưng cặp mắt tôi sớm đã trở nên khô héo, tựa như một giếng nước cạn khô, chỉ có thể nhìn thấy lớp rong rêu phủ đầy dưới đáy, chẳng còn thấy cảnh sóng nước dập dờn. Khi khó chịu tới cực điểm, cả ngày tôi chỉ biết nhìn lớp giấy dán cửa sổ mà ngẩn ngơ, chẳng làm việc gì khác. Có lúc đến Hoán Bích cũng không nhịn được nữa, cất tiếng khuyên nhủ: “Tiểu thư cứ kìm nén như vậy mãi sẽ sinh bệnh đấy, chi bằng cứ khóc thành tiếng thì sẽ thoải mái hơn.”

    Tôi chậm rãi lắc đầu, lúc này, tôi biết lấy đâu ra nước mắt đây? Mà nước mắt thì cũng có thể thay đổi được điều gì?

    Ngoài trụ trì ra thì chỉ có vị ni cô tặng đường đỏ hôm đó là thỉnh thoảng tới thăm tôi. Sau vài lần trò chuyện, tôi cũng biết được tên họ của bà ta, Mạc Ngôn. Bà ta trông cao gầy và lạnh lùng, hai gò má nhô lên vẻ hung dữ, cũng không thích nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng có vẻ hờ hững, như thể chẳng thèm để ý đến ai. Với bộ dạng như vậy, bà ta tất nhiên không thể thân thiết với các ni cô trong chùa này, thế nhưng cũng không có ai dám đến trêu chọc bà ta, hai bên có thể nói là nước sông không phạm nước giếng. Bà ta thì bị mọi người cô lập, còn tôi, tất nhiên cũng chẳng có mấy ai thèm để ý tới.

    Mạc Ngôn thỉnh thoảng có tới nhưng cũng chỉ đứng tựa vào khung cửa nhìn tôi một lát, sắc mặt lạnh lùng. Tôi chỉ khẽ gật đầu tỏ ý chào, sau đó lại tiếp tục ngẩn ngơ hoặc đi ngủ. Nếu khi tới, bà ta nhìn thấy tôi mặt mày đờ đẫn, thường sẽ khinh thường ra mặt, chỉ ở lại một lát rồi phất tay áo rời đi, còn nói thêm một câu: “Đã vào chùa tu hành rồi mà còn thương tâm vì nam nhân nữa sao? Đúng là ngu ngốc!”

    Tuy bà ta từng giúp tôi nhưng lại không quen thân với tôi, tôi hà tất phải nói với bà ta rằng sự thương tâm và buồn bã của tôi không chỉ là vì những hành vi đáng hận của nam tử kia.

    Mạc Ngôn thường xuyên cười nhạo tôi. “Ban ngày nghĩ đến đám nam nhân thối tha đó rồi thương tâm, ban đêm cũng thương tâm vì đám nam nhân thối tha đó, trước đây là vậy, bây giờ vẫn vậy. Nữ nhân quả là vô dụng, sống cả đời vẫn chỉ biết nghĩ đến đám nam nhân thối tha và thương tâm vì chúng thôi!”

    Bà ta một điều “nam nhân thối tha”, hai điều “nam nhân thối tha”, mắng rất đường hoàng và trôi chảy. Tôi bất giác bật cười, người có khẩu khí như vậy đi xuất gia làm ni cô đúng là lựa chọn tốt nhất, thế là tôi bèn nói với bà ta: “Bà xuất gia làm ni cô thực hợp lắm. Bà căm ghét nam nhân như vậy, tất nhiên không nhìn thấy bọn họ là tốt nhất, rất hợp với am ni cô này.”

    Bà ta khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Nếu ngươi cứ nghĩ đến đám nam nhân thối tha đó, vậy thì đâu đâu cũng là bóng dáng của nam nhân, ngươi có ở trong chùa Cam Lộ hay không, có làm ni cô hay không cũng chẳng có gì khác biệt.”

    Tôi chợt nhớ tới lời bình luận của các ni cô khác về Mạc Ngôn: “Hình như Mạc Ngôn có thù oán với nam nhân thì phải.”

    Tôi cũng cảm thấy thế, vì vậy chỉ mỉm cười, không tranh luận gì với bà ta.

    Có điều, Mạc Ngôn cũng có lúc tán dương tôi: “Tính cách ngươi cũng khá tốt đấy, dù chẳng thể buông tên nam nhân thối tha nào đó xuống được nhưng chưa từng rơi một giọt lệ vì hắn. Cũng đúng, những giọt nước mắt thuần khiết của chúng ta há có thể rơi vì lũ nam nhân thối tha đó!”

    Tôi không rơi nước mắt, thế nhưng trong giấc mộng sự kiên cường và tê dại ấy của tôi đã bị đập tan hoàn toàn. Nước mắt vương đầy mặt mà chẳng hề có chút kiêng dè, tựa như lũ côn trùng, không ngừng bò đi bò lại một cách ngang ngược.

    Cận Tịch nói: “Hoán Bích, mau đi đun một siêu nước nóng, nương tử đợi lát nữa lau rửa người xong rồi hãy ngủ, cứ để mồ hôi đầm đìa thế này mà đi ngủ thì dễ bị nhiễm phong hàn lắm!” Nàng ta khẽ áp lòng bàn tay ấm áp lên mu bàn tay tôi, nhẹ nhàng nói: “Nếu nương tử chưa buồn ngủ thì để Cận Tịch nói chuyện với nương tử một lát nhé!”

    Tôi không nói gì, chỉ khẽ gật đầu một cái.

    Cận Tịch dịu giọng hỏi: “Nương tử gặp ác mộng có phải là vì chuyện trước đây không?” Tôi không trả lời, lặng im coi như thừa nhận. Cận Tịch khẽ thở dài một tiếng, nói: “Đổi lại là bất cứ ai, gặp phải cơn biến cố thế này nhất định đều sẽ thương tâm.” Nàng ta thoáng trầm ngâm rồi nói tiếp: “Nương tử có từng nghĩ tới việc Đông Sơn tái khởi, báo thù rửa hận cho người nhà không?”

    Nơi đáy lòng tôi tràn đầy sự chua chát, sự chua chát ấy tràn dần lên tới khóe miệng và biến thành một nụ cười gượng gạo. “Ý của ngươi, ta không phải không hiểu, nhưng nếu muốn Đông Sơn tái khởi, báo thù rửa hận thì không thể không dựa vào y, nếu không tất cả sẽ chỉ là lý luận suông, không có chút ý nghĩa thực tế nào.”

    Bây giờ tôi chẳng muốn nhắc đến cái tên Huyền Lăng chút nào, cũng bỏ hẳn lối xưng hô “Hoàng thượng”, chỉ thay thế bằng một chữ “y”.

    Cận Tịch tất nhiên hiểu rõ điều này. Tôi lại nói: “Người hãm hại ta sớm đã bày ra mưu kế liên hoàn, đầu tiên là dùng áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu để khiến ta bị thất sủng, khiến y cho rằng ta cố ý mạo phạm tiên Hoàng hậu, làm một việc không biết lượng sức mình, tự chuốc lấy nhục. Mà khi ấy, ta cũng hiểu rõ, trong bao năm sủng ái, trong mắt y, ta chẳng qua chỉ là cái bóng của Thuần Nguyên Hoàng hậu mà thôi.” Mười ngón tay của tôi nắm chặt, nơi đốt ngón tay phát ra những tiếng “răng rắc” và trở nên trắng bệch, sự căm hận và bất lực trong lòng thể hiện ra một cách rõ ràng bằng những giọt nước mắt lã chã tuôn rơi. “Người đặt ra cạm bẫy không chỉ suy nghĩ chu toàn, kín kẽ, còn biết rõ tính cách của ta và y. Nếu y nhận định rằng ta có lòng mạo phạm, nhất định sẽ không thèm nghe lấy nửa lời giải thích của ta, thậm chí về sau ta có biện bạch gì cho người khác, y cũng chỉ cho là những lời vô căn cứ, chẳng thèm để tâm. Mà ta sau khi biết việc mình chẳng qua chỉ là cái bóng của người khác trong lòng y, sao ta còn muốn gặp lại y, ân ái với y nữa, thậm chí người đó còn đoán trước được việc ta sẽ chẳng tự biện bạch cho bản thân câu nào. Người đó tâm kế thâm trầm đến đáng sợ, vượt xa khỏi dự liệu của ta, cũng chính vì thế nên ta mới bị nàng ta khống chế trong lòng bàn tay như vậy.”

    Cận Tịch nhíu chặt đôi hàng mày, nhìn như hai chiếc lá liễu bị gió lốc thổi cho cong lại. Sau một thoáng tĩnh lặng tới tột cùng, nàng ta đột nhiên ngẩng đầu, trong mắt lóe hiện những tia sáng âm u, sâu thẳm, tựa như ngọn lửa ma trơi. Nàng ta nói rành rọt từng từ: “Hoàng hậu là chủ nhân của hậu cung, lại làm vợ chồng nhiều năm với Hoàng thượng, có tâm kế như thế cũng là lẽ thường tình.”

    Tôi khẽ “hừ” một tiếng, nói với giọng tự giễu: “Ban đầu ta cứ ngỡ Hoàng hậu nhân từ, lương thiện, về sau cũng loáng thoáng biết là không phải, nhưng không ngờ lại có ngày hôm nay. Ta xưa nay vẫn luôn tôn kính Hoàng hậu, chưa từng có chút lòng nổi loạn.”

    Cận Tịch hơi nhếch khóe môi, bình thản nói: “Nương tử mới chỉ biết một mà không biết hai. Nương tử cho rằng chỉ cần ngoan ngoãn nghe lời thì Hoàng hậu sẽ không ôm lòng muốn giết nương tử sao? Nô tỳ biết được dung mạo của nương tử có ba phần giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu, tính cách thậm chí còn giống năm phần, Hoàng hậu thân là em ruột của Thuần Nguyên Hoàng hậu, có lý nào lại không biết? Tình ý của Hoàng thượng với Thuần Nguyên Hoàng hậu sâu dày đến cỡ nào, mà nương tử lại có phần giống với tiên Hoàng hậu, cho nên sớm đã trở thành cái gai trong mắt Hoàng hậu rồi. Huống chi, khi đó cả cha anh của nương tử đều lập được đại công trong việc bình định Nhữ Nam Vương, nương tử thì vẫn luôn đắc sủng, lúc này gia thế lại lên vùn vụt, hiển hách tột cùng, thậm chí còn khó đối phó hơn Hoa Phi khi xưa.” Nàng ta suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Nếu là trước đây, nô tỳ cũng chỉ nghĩ Hoàng hậu có chút tâm kế, nhưng sau việc vừa qua mới hiểu được sự lợi hại của nàng ta. Thời gian vừa rồi, nô tỳ vẫn luôn không ngừng suy nghĩ, rốt cuộc đã hiểu ra được đôi điều. Kỳ thực, ngay từ sớm Hoàng hậu đã tính toán kĩ càng, từng bước đẩy chúng ta vào cạm bẫy.”

    Mưa lạnh va vào chấn song cửa sổ làm phát ra những tiếng “bộp bộp” không ngớt, xen lẫn trong đó còn có tiếng gió lạnh rít gào, nghe như ma hờn quỷ khóc, khiến lòng người kinh sợ. Dù cách một lớp giấy dán cửa sổ, sự lạnh lẽo của cơn mưa ấy vẫn như tràn thẳng vào phòng.

    “Chu Nghi Tu!” Từ kẽ răng tôi bật ra cái tên của Hoàng hậu, từng từ đều ẩn chứa sự oán hận tột cùng: “Ta cứ ngỡ mình không đắc tội gì với nàng ta, chẳng ngờ ngay từ đầu ta đã là cái gai trong mắt nàng ta rồi.” Tôi đưa mắt nhìn Cận Tịch, nơi đáy lòng chợt trào dâng một ự yếu đuối và thương tâm tới tột cùng. “Lúc đầu, nàng ta chỉ lợi dụng ta để đối phó với Hoa Phi. Hóa ra sau khi ta vào cung, mỗi bước đi đều nằm trong tính toán của nàng ta, người ta là dao thớt, còn ta là cá thịt, vậy mà ta lại chẳng hay biết, sao có thể đối địch với nàng ta được? Nàng ta sớm đã bày sẵn thiên la địa võng để chờ ta rồi.”Cận Tịch hơi cúi xuống, dưới ánh nến mờ tối, chiếc cằm ngày một gầy guộc kia toát ra những nét kiên định. Sau hồi lâu lặng im suy nghĩ, Cận Tịch cất tiếng: “Đừng nói là lúc này, dù là trước đây, chúng ta cũng không có sức để đối địch với Hoàng hậu.”

    Lời của Cận Tịch quả là đúng, mà tôi cũng nào phải chưa từng nghĩ đến điều này. Trong quãng thời gian đầu óc mơ màng, thân thể tôi luôn bị nhấn chìm trong đau đớn, chẳng thể ngủ ngon. Qua bao lần đau đớn ấy, mỗi sợi dây thần kinh trong cơ thể tôi đều dần trở nên tỉnh táo và suy nhược hơn. Dù có không cam tâm đến mấy, rốt cuộc tôi cũng đành thừa nhận: “Trong hậu cung, đa số phi tần đều cho rằng nàng ta hiền lương, thục đức, còn những người biết được bộ mặt thật của nàng ta đều gặp phải cơn tai họa bất ngờ, do đó nụ cười của nàng ta với mọi người trong cung luôn hiền hòa như thế. Mà quan trọng nhất là ngay đến Hoàng thượng cũng cho rằng như vậy. Nàng ta là con gái nhà họ Chu, là cháu gái ruột của Thái hậu, là chị họ của Hoàng thượng, là em gái ruột duy nhất của Thuần Nguyên Hoàng hậu, chính sức mạnh về huyết thống này đã giúp nàng ta ngồi vững ở ngôi mẫu nghi thiên hạ. Dù rằng nàng ta không có con cái…” Tôi cười lạnh một tiếng, tựa như tiếng kêu thê thảm của một con cú đang nấp trên cây giữa màn đêm đen. “Không, con trai của Cẩn Phi ngày trước bây giờ đã trở thành con ruột của nàng ta rồi. Nàng ta chỉ cần đợi ngày ngồi lên ngôi vị Hoàng thái hậu nữa thôi!”

    “Hoàng thượng…” Cận Tịch nhìn chằm chằm vào tôi, những sợi gân xanh trên trán hơi nẩy lên.

    Tôi đương nhiên hiểu rõ ý của nàng ta, một nụ cười thê lương lặng lẽ xuất hiện bên khóe môi, tựa như một vết nứt xuất hiện trên khuôn mặt tôi vậy. Tôi bình tĩnh nói: “Trong quãng thời gian mang thai Lung Nguyệt, trong nhà đột nhiên xảy ra biến cố, đâu phải ta chưa từng nghĩ nếu mình ép dạ cầu toàn, có lẽ sẽ có thể xin y tin rằng nhà họ Chân trong sạch, thế nhưng y nào chịu tin, vẫn hạ thánh chỉ biếm truất toàn bộ người nhà của ta. Kỳ thực khi đó ta còn chưa hiểu rõ, nếu y chịu tin tưởng ta, tất nhiên sẽ không bao giờ cấm túc ta chỉ vì việc ta mặc nhầm áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu, khiến ta phải chịu đủ nỗi ghẻ lạnh, khổở trong Đường Lê cung, làm Lưu Chu mất đi tính mạng, thậm chí ngay cả lúc mang thai, ta cũng chẳng thể ra ngoài. Ta suy đi nghĩ lại, rốt cuộc cũng đã thông suốt, do đó mới tự động xin rời cung ra ngoài tu hành. Kỳ thực, cho dù ta vẫn còn ở bên cạnh y, rồi y sắc phong ta làm chiêu nghi, ta cũng không thể tươi cười với y, nhẫn nhục chịu đựng sự sủng ái của y. Y dù gì cũng là Hoàng đế, còn Chân Hoàn ta tuyệt đối không phải người như vậy.”

    Cận Tịch khẽ vỗ bàn tay tôi tỏ ý an ủi, nói: “Kỳ thực Chân đại nhân, Chân phu nhân và Chân công tử tuy người Nam kẻ Bắc cách trở xa xôi nhưng dù sao cũng đã giữ được tính mạng. Nương tử dù tính cách mạnh mẽ nhưng cũng không cương nghị và cứng cỏi như Thụy Tần tiểu chủ, tự sát để tỏ chí, đến cuối cùng còn mang tiếng uy hiếp đấng quân vương, chết không nhắm mắt. Chỉ đáng tiếc cho Chân thiếu phu nhân và tiểu công tử.” Cận Tịch thoáng trầm ngâm, cuối cùng vẫn lên tiếng hỏi: “Kỳ thực nô tỳ vẫn luôn canh cánh trong lòng một chuyện, nếu người An Lăng Dung căm hận là nương tử, vậy thì chỉ cần ra tay với nương tử hoặc người chí thân của nương tử là được, tại sao đến cuối cùng lại là Chân thiếu phu nhân và tiểu công tử gặp cơn tai họa như thế? Nô tỳ nghe nói khi đó Chân thiếu phu nhân và tiểu công tử mắc bệnh sốt rét, thái y được phái tới chữa trị chính là người bên cạnh An thị, việc này quả thực kỳ lạ quá chừng.”

    Nếu là lúc còn ở trong cung, nguồn cơn bên trong tôi ắt sẽ chẳng nói ra nửa phần mà vùi sâu trong tim, để mặc cho nó dần trở nên mục ruỗng. Nhưng giờ đây, tình hình đã khác hẳn ngày xưa rồi.

    Tôi cố gắng kiềm chế tâm trạng của mình, giọng nói từ kích động trở nên hờ hững: “Sự đố kị của nữ nhân đáng sợ vô cùng, còn ghê gớm hơn cả mãnh thú, lũ lụt.” Thoáng dừng lại, tôi nói tiếp: “Đặc biệt là trong chuyện tình cảm nam nữ.”

    Cận Tịch bất giác cả kinh, lập tức hiểu ra mọi việc. Sự kinh hãi của nàng ta không hề thua kém tôi khi phát hiện ra những giọt nước mắt bi thương của Lưng Dung đêm đó. Nàng ta thoáng ngẩn ngơ, sau đó liền phần nào bình tĩnh trở lại. “Nô tỳ tự vấn thấy mình đã sống trong cung nhiều năm, cũng coi như là từng trải, vậy mà tuy có thể phát hiện ra một chút lòng phản trắc của An thị nhưng về tình cảm của An thị với Chân công tử thì thực sự không thể nhìn thấy được nửa phần.”

    Tôi khẽ thở ra một hơi dài, nói: “Nào chỉ mình ngươi, nếu không phải tận mắt thấy, chính tai nghe thấy thì ngay đến bản thân ta cũng gần như không thể tin nổi. Thế nhưng cái gọi là nghiệt duyên trên đời này chính là như vậy. Tâm tư của An thị thâm sâu kín đáo, qua đó cũng thấy được phần nào.” Tôi ngẩn ngơ rơi nước mắt, những giọt nước mắt nóng bỏng như đang thiêu đốt trái tim tôi. “Trước đây ngươi cũng từng bóng gió, nhắc ta phải đề phòng An Lăng Dung hai lòng nhưng ta lại quá tin tưởng ả, tin tưởng cái gọi là tình nghĩa tỷ muội, cho nên mới có kết cục ngày hôm nay. Tất cả đều là tại ta quá cả tin, tự chuốc lấy tai họa vào người.”

    Cận Tịch nói: “Đây chính là điểm yếu của nương tử, quá trọng tình cảm. Kỳ thực đã vào cung rồi, có thể xem nhẹ chữ ‘tình’ đi một chút, giống như Kính Phi nương nương vậy, cuộc sống chắc sẽ thoải mái hơn nhiều.”

    Tôi bất giác nghẹn ngào, nói ra mối tâm tư khiến bản thân tột cùng nghi hoặc: “Cận Tịch, ta có một chuyện không sao hiểu được. Ta đối xử với An Lăng Dung tuy vẫn chưa tới mức moi gan móc ruột như với My Trang, nhưng cũng coi như là hết lòng hết dạ. Cớ gì mà ả lại hận ta đến vậy, đầu tiên là dùng Thư ngân giao hại chết đứa con trong bụng ta, sau đó lại liên thủ với Hoàng hậu lật đổ ta, đến người già người trẻ trong nhà ta cũng không chịu buông nữa. Ta thực không hiểu, tại sao ả lại hận ta như vậy?”

    Trên mặt Cận Tịch thoáng qua nét phức tạp và mê hoặc nhưng rất nhanh sau đó đã mỉm cười thản nhiên, như thể hiểu thấu sự đời. “Lòng người vốn phức tạp và dễ đổi thay, đây chính là ví dụ rõ ràng nhất.”

    “Lòng người vốn phức tạp và dễ đổi thay…” Tôi lẩm bẩm lại câu này: “Cận Tịch, giờ đây ta chỉ có một mong ước viển vông, ấy là đời người mãi được như lần đầu gặp mặt… Ví như Lăng Dung, còn nhớ lúc mới gặp, ả yếu đuối, đáng thương biết mấy, My Trang tỷ tỷ khi đó cũng tự nhiên, cởi mở biết nhường nào. Còn y, chỉ là y trong lần mà ta mới gặp thôi…” Tôi nở nụ cười thê lương. “Giữa những bông hoa hạnh đầy trời, y mỉm cười bước tới, cảnh xuân tươi đẹp vô cùng… Nhưng mùa xuân rồi cũng phải qua đi. Nếu thế gian mãi dừng lại ở khoảnh khắc đó, không có mọi chuyện về sau thì thật tốt biết bao!”

    Gió đêm thổi vào qua khe cửa sổ, mang theo không khí ẩm ướt mà giá lạnh, khiến ngọn nến vốn đã mờ tỏ chập chờn như muốn tắt. Cận Tịch đưa tay tới che ngọn lửa, thoáng lặng im rồi mới nói: “Gió thu mang sầu đến, lòng người dễ đổi thayChuyện trên thế gian này thường luôn như vậy.”

    “Ly sơn ngữ bãi thanh tiêu bán, dạ vũ lâm linh chung bất oán. Hà như bạc hạnh cẩm y nhi, tỷ dực liên chi đương nhật nguyện[1].” Tôi chậm rãi cất tiếng ngâm, giữa mưa đêm dầm dề sầu da diết, tôi chợt khẽ cất tiếng cười. “Đêm nay không ngờ cũng là một đêm mưa. Cận Tịch, ngươi có tin không? Quãng thời gian vừa qua, y gần như không bước vào giấc mộng của ta lần nào. Cứ tiếp tục thế này, chỉ e ta sẽ hoàn toàn quên mất hình dáng của y.”

    [1] Trích Mộc lan hoa – Nghĩ cổ quyết tuyệt từ giản hữu, Nạp Lan Tính Đức. Dịch nghĩa: Ngày đó trên Ly Sơn, Dương Quý Phi và Đường Minh Hoàng thề non hẹn biển, chẳng ngờ cuối cùng nơi gò Mã Ngôi Dương Quý Phi lại bị Đường Minh Hoàng ban cho cái chết, nhưng Dương Quý Phi vẫn chẳng oán hận chút nào. Đâu có giống như Đường Minh Hoàng bạc tình, những lời chim liền cánh, cây liền cành ngọt ngào thuở xưa chỉ là lời nói suông – ND.

    Cận Tịch mỉm cười hiền hòa, cất lời an ủi: “Y vốn là người mà nương tử một lòng muốn quên đi, không nhớ đến nữa thì đương nhiên là tốt rồi. Cuộc sống trong cung xưa nay vốn luôn dễ dàng mài mòn góc cạnh của người ta, nương tử đã vào cung nhiều năm, trong mọi việc đa phần đều nín nhịn cầu toàn. Nhưng giữa chốn cung đình, việc tranh đấu không bao giờ ngơi nghỉ, nô tỳ luôn cảm thấy tính cách của nương tử hồi mới vào cung đã bị mài mòn gần hết rồi. Mãi đến ngày hôm đó, khi nương tử kiên quyết từ biệt y, ngâm lên lời rằng ‘sông Cẩm mênh mang, từ nay vĩnh biệt’, nô tỳ mới cảm thấy bản tính thật sự của nương tử đã trở về. Chỉ đáng tiếc, chốn cung đình không cho phép tính cách đó tồn tại. Nương tử có thể rời cung mà tới nơi này, còn vừa bảo vệ được mình vừa bảo vệ được người khác, ấy cũng đã là một điều may mắn giữa bao nỗi bất hạnh lớn lao rồi!”

    Tôi nghe những lời an ủi này của Cận Tịch mà thầm cảm kích, thế nhưng vẫn nói: “Dù ta có quên được y thì e rằng vẫn còn một số chuyện, một số nỗi oán hận và thương tâm, phải rất lâu sau mới có thể quên được.”

    “Đến chim nhạn bay qua còn để lại dấu vết, huống chi là con người. Dù sau này nương tử thật sự quên được người đó, nhưng có một số vết thương đã để lại sẹo thì không sao xóa nổi. Con người vốn có tâm ma, nương tử phải cố gắng trấn áp nó mới được.” Cận Tịch khuyên xong liền nở nụ cười rạng rỡ, cặp mắt trong veo như gương soi. “Hơn nữa, như thế này liệu có thể tính là tình ý của nương tử với y còn chưa đến mức khắc cốt ghi tâm không? Chính bởi thế nên sự oán hận và thương tâm còn nhiều hơn nhung nhớ. Nếu đó là tình yêu chân thành, sâu sắc và kiên định, vậy sẽ chẳng dễ gì bị hận thù che phủ. Đương nhiên, sống trong cung vốn không cần có tình yêu, thứ tình yêu ấy cho dù có thì cũng chẳng chịu nổi mưa gió dập vùi, giữa muôn vàn mưu mô quỷ kế, đến cuối cùng rồi cũng sẽ tan biến thôi. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, nếu nương tử cứ mãi cố gắng duy trì tình yêu đó, còn y thì không ngừng nghi ngờ, vậy thì sao mà lâu bền được, chỉ càng khiến nương tử thương tâm hơn mà thôi. Trên thế gian này, tình yêu đẹp nhất định phải là chàng có tình thiếp có ý, hai bên tin tưởng lẫn nhau, như thế mới có thể thật lòng hòa hợp, ở bên nhau đến khi răng long đầu bạc.”

    Tôi mỉm cười, hỏi: “Cận Tịch, có đúng là ngươi đã ba mươi lăm tuổi rồi không? Có đúng là từ nhỏ ngươi đã sống trong cung không thế?”

    Cận Tịch thoáng ngạc nhiên. “Đúng là như vậy mà.”

    Tôi cười, nói: “Vậy tại sao ngươi lại hiểu rõ về tình yêu như vậy, còn hơn hẳn muôn vàn nam nữ si tình trên thế gian này?”

    Cận Tịch bất giác bật cười. “Nương tử chê cười nô tỳ đấy sao? Nương tử vốn vô cùng thông minh, cớ sao lại không hiểu trên thế gian này người ngoài cuộc thường luôn tỉnh táo, còn người trong cuộc thì hay u mê, đặc biệt là trong chuyện ái tình. Nếu đổi lại là nô tỳ sa vào bể yêu đương, lúc này có lẽ cũng chỉ là một người rất mực hồ đồ mà thôi.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Cũng phải, có điều, Cận Tịch ngươi thông minh như vậy, sao có thể rơi vào bể yêu đương đến nỗi không tự thoát ra được chứ.”

    Trên mặt Cận Tịch thoáng qua nét ngẩn ngơ, khiến tôi cảm thấy mình chắc đã nhìn nhầm, Cận Tịch sao có thể để lộ khoảnh khắc ưu sầu như thế được, nhất định là tôi nhìn nhầm rồi! Nàng ta rất nhanh đã cười, nói: “Nô tỳ thân phận thấp kém, chỉ biết hầu hạ chủ nhân, lại đã ba mươi lăm tuổi rồi, nửa đời người sۭ đã qua đi, sao còn dính dáng đến chuyện yêu đương được nữa, nương tử thực đã nói đùa rồi!”

    Sau một hồi trò chuyện với nàng ta, nỗi ưu phiền trong lòng tôi đã giảm đi quá nửa, lúc này tôi cũng cười, nói: “Đúng thế, ta chỉ nói đùa vậy thôi. Có điều theo ta thấy, nhiều lúc vô tình thực ra còn tốt hơn hữu tình nhiều.”

    Cận Tịch chỉ khẽ cười. “Vậy sao? Nếu có một ngày nương tử gặp được một người đối xử với mình thật lòng, mà nương tử cũng thật lòng yêu thương người đó, e là nương tử sẽ không nói ra những lời như vậy nữa đâu.”

    Tôi bất giác bật cười. “Cận Tịch, ngươi nói đùa còn ghê hơn ta nữa đó. Ta đã là người trong cửa Phật rồi, sao còn có thể gặp được một người như vậy nữa đây?”

    Cận Tịch hầu hạ tôi lau rửa thân thể, lại đắp chăn cẩn thận cho tôi, trên mặt luôn giữ nụ cười mỉm hiền hòa. “Nô tỳ đúng là chỉ nói đùa vậy thôi, mong nương tử cười xong rồi sẽ dễ ngủ hơn một chút.”

    Thế rồi tôi lại ngủ tiếp. Bên ngoài cửa sổ mưa rơi rả rích, gió thổi vù vù, lúc này mùa thu còn chưa qua hết, khung cảnh mưa gió càng làm tăng lên sự thê lương, nỗi sầu thương, buồn hận trong lòng người bất giác tăng lên bội phần. Sau một hồi dốc bầu tâm sự, tâm trạng tôi đã thư thái hơn nhiều, dần chìm vào giấc ngủ.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này