1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Lịch sử/Quân sự Xuyên không Trinh thám Nạp Thiếp Ký 2 - Tác giả : Mộc Dật - Tình trạng : Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Băng Băng, 2/6/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 121: Tri Thức Chính Là Lực Lượng
    Long Bỉnh ngẫm nghĩ, vẫn không yên tâm, e dè hỏi: "Dương đại nhân, số đạn pháo đó có thể chuyển lên thành lâu được không, vạn nhất địch quân đột nhiên đến đánh, e rằng phản ứng không kịp."

    "Không cần! Số đạn pháo này uy lực quá lớn, cần phải do ti chức tự thân bảo quản, một khi khai chiến, do tôi tự thân chỉ huy phát xạ mới được. Nếu không lỡ khi có sai xót, có một hai quả nổ trên thành lâu, thì chúng ta sẽ về tây thiên hết!"

    Long Bỉnh cười khan: "Vậy cũng đúng, hắc hắc, số đạn pháo đó uy lục quá mạnh, do Dương đại nhân tự thân chưởng quản là không còn gì hay bằng nữa."

    Dương Thu Trì hỏi: "Hôm nay địch quân có động tĩnh gì không?"

    Long Bỉnh đáp: "Căn cứ thám tử hồi báo, địch quan hạ trại cách hai chục dặm, không có dấu hiệu tấn công, nhưng dường như không có dấu hiệu triệt thối, khiến người nghi hoặc vô cùng."

    "Quản gì chúng, chỉ cần bọn chúng tạm thời không tiến công, chúng ta có thêm thời gian chuẩn bị, thì sẽ có thêm phần thắng lợi. Đêm về nhất định phải chú ý động hướng của địch quân."

    "Được, ta đã cho an bài quan sát các cao điểm, lấy lửa làm hiệu lệnh. Ngoài ra, còn cho chất củi khô ở chỗ địch nhân đi qua, đêm về sẽ đốt lên, nhò đó quan sát động hướng địch quân."

    Long bỉnh dù sao cũng là lão tướng nhiều năm chinh chiến sa trường, đối với các loại chiến pháp cổ đại vô cùng quen thuộc, điểm này mạnh hơn người xuyên việt đến đây nhiều. Dương Thu Trì vô cùng cao hứng, chấp tay nói: "Long tướng quân chỉ huy có độ, ti chức bội phục. Ti chức trở về tiếp tục chế tạo đạn pháo."

    Long Bỉnh cũng vô cùng khách khí, vội chấp tay nói: "Làm phiền Dương đại nhân!"

    Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng trở về nội nha điển sứ.

    Nếu như địch nhân còn chưa có dấu hiệu tấn công, Dương Thu Trì quyết định chế thêm đạn, và bắt đầu chế tạo nguyên liệu để làm tạc đạn bằng thuốc nổ đắng.

    Quặng nguyên liệu để chế tạo thuốc nổ không khói, ngòi nổ và tạc đạn đắng đều có ở sau Đồng trại Tuyết phong sơn. Nhưng quặng mỏ này cũng không hiếm gì, chủ yếu là luyện ra axit sulfuric, axit nictic từ sulfat sắt, đá nitrat kali, và than đá.

    Để tạo ra thuốc nổ đắn, thuốc nổ nhồi đạn không khói nitrat hóa và ngòi nổ, hắn đều sử dụng axit sulfuric và axit nitric. Hai loại này các luyện đơn sư của Trung quốc cổ đại đã biết phương pháp lấy để từ đó dùng để luyện đan. Người cổ luyện hai thứ này từ sulfat sắt nung chảy, trong quá trình đó lục phàn (sulfat sắt) phân giải phóng ra Dioxit sulfua (SO2) và SO3, trong đó SO3 kết hợp với nước gặp lạnh ngưng tụ thành axit sulfuric. Cổ đại luyện đơn sư gọi loại axit sulfuric là "Lục phàn du". Phương pháp luyện axit nitric cũng tương tự, nhưng nguyên liệu dùng là quặng nitrat kali.

    Muốn làm thuốc nổ đắng còn có một nguyên liệu trọng yếu nữa, đó là phenol (C6H5OH). Thứ này có thể lấy từ nhựa than đá làm bằng cách gia nhiệt lên than đá trong môi trường cách tuyệt không khí chế thành.

    Phương pháp đề luyện những loại nguyên liệu này Vô Trần đạo trưởng đều biết, đã dạy cho Dương Thu Trì, và đã có những thiết bị sẵn có, Dương Thu Trì cũng đã vận chuyển về nha môn.

    Do những chuyện này, đặc biệt là phối chế hai loại axit đầu luyện đơn sư cổ đại đều nắm được, không có nhiều bí mật gì, số lượng công việc cũng nhiều, cho nên Dương Thu Trì đem chúng giao cho lão hắc đầu và các thiết tượng có kinh nghiệm làm. Sau khi hắn giảng giải, họ nhanh chóng nắm bắt được.

    Thiết tượng từ chưng hấp than đá lấy nhựa than, rồi từ nhựa than đề luyện thành phenol, sau đó tạo ra axit sulfuric và axit nitric đưa đến cho Dương Thu Trì.

    Công tác chế tạo thuốc nổ đắng người cổ không nắm, loại phối chế này không phải chỉ kết hợp tỉ lệ là được, mà còn phải trải qua quá trình hóa hợp tương đối phức tạp, có tính nguy hiểm nhất định, không khéo có thể trúng động hoặc phát nổ. Do đó, Dương Thu Trì tự làm, và nhờ đó đãm bảo kỹ thuật không tiết lộ ra ngoài.

    Tạo thuốc súng không khói nitrat hóa chủ yếu cần axit sulfuric, axit nitric, sợi thực vật, ethanol, ether. Ngoài trừ ether, những nguyên liệu khác người cổ đều biết cách làm. Do đó, Dương Thu Trì tự chế tạo ether, vốn là thứ chất ma túy dùng trong ngoại khoa, cần phải bảo mật, không thể tùy ý truyền ra ngoài. Kỳ thật, để luyện chất này cũng đơn giản, chỉ cần dùng alcohol hóa hợp với axit sulfuric đậm đặc gia nhiệt đến lúc nào đó thì phân tử rời khỏi nước sinh thành ether.

    Vật quan trọng của đạn là ngòi nổ, nguyên liệu cần là thủy ngân, axit nitric và alcohol không có nước (cồn trăm độ).

    Ba loại này người cổ chỉ không nắm kỹ thuật luyện cồn, kỳ thật cũng dễ, cho chưng rượu rồi dùng đá vôi sống hút nước là xong.

    Tuy nói ra thì đơn giản, nhưng dẫu sao thì cũng là một câu nói: tri thức chính là sức mạnh. Nói khác đi, tri thức là một màng giấy mỏng, nếu nắm bắt rồi, mấy phút sau là làm được. Còn không nắm bắt, mấy thế kỷ cũng trơ mắt nhìn.

    Phối chế đạn và ngòi nổ cũng khá phức tạp gì, không chỉ đơn thuận là phối trộn mấy thứ theo tỷ lệ là xong, mà cần phải hóa hợp. Đối với người nắm về hóa học hiện đại, chuyện này khá dễ dàng. Rất may Dương Thu Trì là ngươi như vậy. Tuy hắn học về pháp y và kiểm nghiệm hình sự vật chứng, nhưng do trong pháp y kiểm nghiệm những vết thương do trúng đạn, bị nổ ...

    đều liên quan đến kiến thức súng, thuốc nổ.... Nhờ hắn là người thích vừa học vừa hành, cho nên đã sớm xin vào phòng thực nghiệm của trường đại học thử làm qua hết mọi thứ. Hiện giờ, những thứ này không làm khó cho hắn.

    Đương nhiên, có câu cách nghề như cách núi. Hắn chỉ nằm pháp y và kỹ thuật giám định, cũng như một số tri thức liên quan đến thuốc nổ và vũ khí hạn nhẹ. Đối với vũ khí hạng nặng, tăng, phi cơ.... thì hắn trợn mắt ngay.

    Dương Thu Trì tạo ra đạn và thuốc nổ đắng này có độc, nên để đề phòng, hắn cần phải phòng hộ chu đáo.

    Về phương diện tiếp xúc, hắn mang bao tay không thấm nước đao thương không thủng xuyên việt mang tới.

    Hắn lại nhờ Quách Tuyết Liên dùng vải bố nhuộm sáp của Đồng gia làm một bộ đồ bảo hộ từ đầu tới chân, có tính phòng thủy rất mạnh, có tác dụng ngăn tiếp xúc cao.

    Hắn còn cho chế tạo mặt nạ phòng độc, dùng đá vôi và đất sét kết hợp nước thành khối, hong khô, đánh mịn, chọn ra rồi chế thành những viên nhỏ tẩm mật ong, hong khô, cho thêm bột gỗ, bông chế thành mặt nạ phòng độc.

    Những nguyên liệu hiện hữu hắn đều dùng chế tạc đạn. Nhưng nguyên tài liệu mới chưa luyện xong, cho nên hắn cho người chế tạo dụng cụ bảo hộ rồi tiếp tục chế đạn tù thuốc nổ không khói và ngòi nổ, giao cho hộ vệ làm đạn.

    Đêm đó, Dương Thu Trì thức trắng, cộng thêm tối qua gấp hành quân, hắn đã hai đêm không ngủ. Nhưng do không biết khi nào địch nhân sẽ tấn công, nên tạo ra đạn nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Hắn tiếp tục cố sức, chừng nào chịu không nổi mới nghỉ một chút, sau khi thức dậy lại tiếp tục làm.

    Liễu Nhược Băng thương xót hắn, bảo hắn nghỉ ngơi một hồi, nhưng hắn lắc đầu. Liễu Nhược Băng biết phu quân thực hiện công tác này có tác dụng quyết định tới thắng lợi, nên đành để cho hắn cố sức.

    Đêm đó, cao thủ do Vũ Kỳ phái đi trở về, tuy bắt được lính trinh sát của địch quân, nhưng không hỏi ra tin tức có giá trị gì, cũng không biết địch quân định làm gì tiếp.

    Sau đó ba bốn ngày, địch quân vẫn hạ trại y chỗ cũ, không tấn công cũng không thối lui. Nhưng Dương Thu Trì và các hộ vệ đã lợi dụng mấy ngày này chế tạo ra thêm 5 nghìn viên đạn.

    Lão thiết tượng mang cả trăm thiết tượng phân công phụ trách, ngoại trừ chế tạo vỏ đạn, đầu đạn và ngòi nổ, tinh lực chủ yếu tập trung vào tạo ra Lão sáo đồng và súng máy Maxim.

    Lão sáo đồng hơi đơn giản chỉ cần 4 ngày sau khi thử và thay đổi thiết kế là chế tạo được, hoàn toàn hợp cách, bắn mấy chục phát đạn mà không bị nổ nòng, độ chính xác phù hợp, nên Dương Thu Trì cao hứng, cho sản xuất lượng lớn.

    Nhưng súng máy Maxim thì không thuận lợi gì, vì Dương Thu Trì chỉ dựa vào ký ức mà vẽ ra, trong khi đó kết cấu của súng này vốn khá phức tạp. Súng mấy lần tạo ra, thử đều không thành công, ngay cả đạn cũng không bắn được huống chi là nổ nồng.

    Lão thiết tượng cũng giúp suy nghĩ, cải sửa lại kết cấu, qua năm sáu ngày mẫu thử đã bắn đạn được, nhưng một lát thì bị nổ nòng, thỉnh thoảng còn nổ luôn lòng súng. Những súng chế tạo thử đều không qua được thử nghiệm, xem ra vấn đề chủ yếu ở kết cấu. Súng maxim có kết cấu quá phức tạp, xã hội hiện đại thì gần như không còn loại súng này nữa, nên Dương Thu Trì thật sự bó tay.

    Sau khi thử mấy lần đều thất bại, Dương Thu Trì đành bỏ qua chuyện tạo đạn, chuyên tâm cải sửa kết cấu. Rất may là hắn có tri thức kha khá về súng ống hiện đại, nên căn cứ vào đó mà cải sửa lại bản thiết kế, tình huống bắt đầu chuyển biến tốt.

    Khi lão hắc đầu căn cứ vào bản thiết kế mới nhất của Dương Thu Trì chế tạo lại, thì địch quân đột nhiên phát động tiến công đại quy mô!
     
  2. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 122: Địch Nhân Giảo Hoạt
    Tiến công được tiến hành vào lúc hắc ám nhất trước khi bình minh!

    Trước tiên, thành lâu phía tây vang lên hiệu giác cảnh báo địch quân tiến công. Lát sau, liền nghe tiếng nổ lớn trên thành lâu, trong tiếng pháo, ẩn ước nghe tiếng gào giết từ ngoài thành.

    Lúc này, Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng đang giám đốc các thiết tượng dẫn đầu bằng lão hắc đầu chế tạo súng máy cực kỳ quan trọng trong xưởng chế tạo tại nha môn.

    Súng máy còn chưa chế tạo ra, súng bộ thương Lão sáo đồng chỉ chế được 6 cây. Do đoạn thời gian này hắn toàn tâm toàn ý tập trung vào chế tạo súng máy maxim, cho nên không tiến hành giảng dạy cách sử dụng súng bộ thương Lão sáo đồng này cho các hộ vệ, ngay cả Lưu Dũng cũng không biết dùng, ngoại trừ hắn ra không ai biết cả, quả là thất sách.

    Ôm chân phật khi nước tới trôn là không thể, hắn ra lệnh cho lão hắc đầu tiếp tục tạo súng máy, khi tạo xong trực tiếp mang lên thành lâu. Hắn đế Liễu Nhược Băng lên thành lâu phòng thủ trước, sau đó tự chạy vào trong lấy một cây Lão sáo đồng, mang theo một thùng đạn đã lắp sẵn, bảo Lưu Dũng cùng các hộ vệ vác mấy chục quả tạc đạn bằng đá vội chạy ra Tây thành, trèo lên thành lâu.

    Dương Thu Trì từ sau công sự quan sát, nhờ có ảnh lửa chiếu, có thể nhìn thấy xa xa đầy đầu người, tiếng quát giết vang trời đang xông về phía này.

    Dương Thu Trì vội hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, địch tình thế nào?"

    Long Bỉnh vô cùng khẩn trương: "Không rõ, vừa rồi lính gác ở trên núi đốt lửa cánh báo, biểu kỳ địch quân đang tấn công về hướng này, ta mới hạ lệnh thổi hiệu giác báo động. Tiếp đó, địch quân đã xông lên. Nhưng lần này từ tình huống di động mà xét, tựa hồ không phải kỵ binh, mà là bộ binh, hơn nữa tốc độ khá chậm, ta lo là địch quân đang kéo hỏa pháo đến!"

    Dương Thu Trì khẩn trương: "Hỏa pháo?"

    Bên hắn có gần 20 hỏa pháo, địch nhân khẳng định có nhiều hơn. Xem ra, địch nhân biết tạc đạn của hắn lợi hại, không dám thự hiện chiến thuật biển người tấn công dày đặc, mà chuyển sang dùng hỏa pháo bắn xa quấy nhiễu.

    Hỏa pháo cổ đại thường bắn đạn thật tâm, nhiều lắm là sử dụng thêm khai hoa đạn (đạn nổ bung ra mảnh đạn) dùng thuốc nổ đen. Loại tạc đạn này uy lực rất nhỏ, chỉ có ở sát điểm nổ mới thụ thương, không cần phải lo. Minh quân, Đồng binh và bá tánh tham chíên đối với loại tạc đạn này hiểu rất rõ, đều ẩn sau thành đóa rất dày.

    Pháo đạn của địch quân nổ trên thành tường, đều là đạn khai hoa, không tạo thành thương vong gì lớn.

    Long Bỉnh hạ lệnh ẩn nấp, chờ địch quân bức gần rồi phản kích, do đó, họ chỉ im lìm nghe pháo hỏa của địch quân không ngừng nổ trong ngoài thành.

    Địch quân dường như không gấp cường công, vừa dùng hỏa pháo tập kích lên thành lâu, vừa từ từ tiến bước.

    Dương Thu Trì rất phiền vì chuyện chỉ bị đánh mà không thể đánh trả, ra lệnh cho nhồi đạn vào các hỏa pháo phất lãng cơ (Chú: Nhà Minh phỏng chế lại pháo của Bồ Đào Nha du nhập vào (từ năm 1522 đời Gia Tĩnh), gọi pháo đó là Phất lãng cơ (theo tên phiên âm của Bồ Đào Nha). Năm 1524 chế được 30 khẩu, mỗi khẩu nặng 300 cân. Đặc điểm của pháo thời này là phối theo kiểu mẫu tử: mẫu súng dài to, có tử súng nhỏ lồng bên trong. Thường nhà Minh trang bị cho quân đội phía Bắc và hải quân. ND). Loại hỏa pháo này sau khi bắn xong, ống chứa thuốc có thể lấy xuống (thực ra là tử súng), đổi bằng ống thuốc súng đã điền sẳn, sau đó bắn lần hai, nguyên lý giống như đổi đạn pháo ngày nay vậy.

    Sau khi lắp đạn xong, hắn hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, hỏa pháo của chúng ta có thể đánh trả không?"

    Long Bỉnh cười khổ: "Không được, dương đại nhân, địch quân sử dụng hồng di đại pháo (loại pháo lớn mua của các thương gia phương Tây). Loại pháo này có đường bắn xa, gấp đôi hỏa pháo của chúng ta. Hiện giờ chúng đánh tới chúng ta, nhưng hỏa pháo của chúng ta không bắn tới. Nếu không, ta đã sớm yêu cầu ông dùng khai hoa pháo đạn diệt bọn thỏ này rồi!"

    Thời Minh mạt, hỏa pháo tự chế của Minh triều theo hình loa kèn, ống pháo ngắn, nòng pháo cụt như vậy nên bỏ thuốc súng vào ít, trình độ kín khí không cao, vì thế bắn gần, rất dễ nóng, tốc độ bắn chậm. Ngoài ra, Minh triều tự chế súng đều từ đồng, tuy trọng lượng nhẹ, nhưng co giản dễ, nên bắn vài phát là biến hình, ảnh hưởng đến xạ trình và độ chính xác.

    Nếu so ra, hồng di đại pháo chế toàn bằng sắt, độ cứng cáp và kín khí cao, trước nhỏ sau lớn, phù hợp quy tắc biến hóa ép nòng, pháo thân sử dụng cách đúc khuôn, đáp ứng yêu cầu khoa học, phối hợp với những thiết bị phụ trợ nên chất lượng rất cao, tỷ lệ thích hợp, tỷ lệ nổ nòng thấp.

    Do thân pháo dài, bỏ nhiều thuốc, tầm bắn rất xa. Pháo tự tạo của Minh triều chỉ bắn xa khoảng 3 dặm, thì hồng di đại pháo có thể bắn xa 7-8 dặm.

    Do đó, hồng di đại pháo của quân đội Trương Hiến Trung có thể bắn lên thành tường, nhưng pháo đồng của Dương Thu Trì chẳng có cách gì bắn trả.

    Dương Thu Trì tức đến phát điên, nhưng không còn cách nào, chỉ còn chờ địch quân đến gần.

    Nhưng địch quân dường như biết đối phương không có hồng di đại pháo, biết khai hoa đạn bằng đá có uy lực cực mạnh của đối phương không bắn xa được, nên đến ngoài tầm bắn của đồng pháo là dừng lại, không ngừng dùng hồng di đại pháo phá tường thành, không tiến công.

    Cứ như vậy hơn một thời thần, do hồng di đại pháo bắn có đang thật tâm (xem hình) và đạn khai hoa (xem hình), nên đã tạo thành con số thương vong mấy chục người cho Minh quân và Đồng quân trên thành, tường thành cũng bị phá tan nát, binh sĩ nấp sau thành đóa có không ít người bị đập cho thương tích đầy mình.

    Địch quân không tiến công cũng hay, Dương Thu Trì nghĩ vì dù sao thì hắn cũng chỉ có mấy chục quả tạc đạn, căn bản không thể chống lại tiến công đại quy mô. Nhưng nếu cứ như thế này không cũng không phải là cách hay. Đang lúc hắn suy nghĩ xem nên làm thế nào, thì ba phương hướng đông, nam, bắc khác đồng thời nổi lên tiếng quát giết! Ba thành lâu ở đó đều đốt pháo lửa cảnh báo địch quân phản công, tiếng còi hiệu vang khắp nơi.

    Chính vào lúc này, địch quân phía trước hắn trống trận dập dồn, tiếng hét vang trời, như thủy triều cuốn tới xung phong!

    Dương Thu Trì đại kinh thất sắc, thì ra là địch quân ở trước mặt chờ đợi địch quân ở 3 phương hướng khác rồi mới hành động theo, tiến công cùng lúc.

    Địch quân có 3 vạn người, cho dù binh phân 4 đường thì mỗi đường cũng 7 nghìn hơn.

    Trong khi đó quân thủ thành tổng cộng chỉ có sáu nghìn người, trong đó 1 nghìn Đồng quân đã phái đi vận chuyển quặng mỏ, còn lại 5 nghìn thì 4 nghìn đang ở tây thành, nhân vì Kiềm Dương cổ thành có 3 mặt là núi, chỉ có phía tây là bằng phẳng, có lợi cho tiến công đại quy mô.

    Ba mặt khác đều là núi cao rừng rậm, không thích hợp tác chiến đại quy mô, cho nên Long Bỉnh phụ trách phòng thành đã chia binh lực các nơi đó chỉ đủ 500 người, còn chủ lực 3 nghìn 500 người tập trung ở phía tây.

    Sắp xếp như vậy đương nhiên không có vấn đề, nhưng không ngờ địch quân sau khi triệt lui 20 dặm mấy ngày trước đã lập tức phân binh, chỉ lưu 1 vạn 5000 binh ở lại, còn lại chia ba đội, ẩn mật vu hồi lẻn về ba phương hướng, tiếp cận thành vào ban đêm, ước định khi trời sắp sáng thì đồng thời tấn công.

    Chính diện địch quân như triều, nhanh chóng tiến vào tầm bắn của Phất lãng cơ.

    "Phóng!" Dương Thu Trì quát lớn.

    Mấy khẩu phất lãng cơ đồng thời gầm lên, miệng pháo phun lửa, mấy tạc đạn bằng đá bay ra, rơi vào địch quân.

    "Oành oành oành...!"

    Một loạt tiếng nổ lớn xé rách thi thể binh sĩ địch quân, nhưng nhờ ánh lửa, Dương Thu Trì phát hiện thi thể bị bay đi của địch quân không nhiều như lần trước!

    Như vầy là thế nào?

    Cho dù tốc độ bắn của Phất Lãng Cơ đã khá nhanh, nhưng địch quân xung phong với tốc độ nhanh, khi lần bắn thứ hai vừa xong thì chúng đã cách tường thành mấy trăm mét. Mấy tiếng pháo nổ, có không ít địch quân bị xé nát bay tung.

    Nhờ hỏa quang, Dương Thu Trì cuối cùng nhìn rõ, thì ra là đội hình xung phong của địch lần này phân tán, tự nhiên chẳng thể nổ chết nhiều người.

    Địch quân cũng là người, có đầu óc, xem ra mấy ngày nay chúng không nhàn, nghiên cứu ra cách đối phó tạc đạn của Dương Thu Trì, đã tránh xung phong dày đặc.

    Lượt pháo thứ ba nổ, vô số địch quân ngã, nhưng 3 lần này số lượng chết không bằng 1 lần lúc trước! Và mọi tạc đạn của Dương Thu Trì đều đã dùng sạch rồi!

    Đợt bắn thứ tư là đạn phổ thông dùng thuốc súng đen và thật tâm đạn.

    Thấy uy lực của tạc đạn giảm, du kích tướng quân Long Bỉnh vội hỏi Dương Thu Trì: "Dương đại nhân! Sao thế? Đầu đạn bằng đá đâu?"

    Dương Thu Trì không đáp, lòng lạnh hẳn.

    Lúc này, địch nhân đã xông tới dưới thành, bắc thang mấy cường công. Liễu Nhược Băng như con nhạn lớn bay tung trên thành, đoản kiếm trắng lấp lóe hàn quang, chém giết địch quân tiến lên trên thành lâu.

    Không ngờ, lần này công thành địch quân đều dùng hảo thủ võ công, tuy không bằng Liễu Nhược Băng, nhưng mỗi tên đều có thể đánh hơn mười hiệp với nàng, hơn nữa khi lên không liều mạng mà đánh xoắn ngăn chân tay nàng, để cho các quân sĩ khác cùng xông lên.

    A Hạnh Ny và hơn chục thân binh Đồng quân đã bị địch quân đánh lên mặt thành bao vậy, đang liều mạng chém giết.

    Dương Thu Trì không gia nhập chiến đoàn, võ công hắn chẳng hơn địch quân bao nhiêu, gia nhập không cải biến được gì. Rất may là trong tay hắn có cây súng lão sáo đồng Mauser 1888 của Đức quốc xã!

    "Đùng! lách cách! Đùng.... Lách cách..."

    Dương Thu Trì dùng tư thế quỳ bắn, dường như mỗi phát diệt một tên. Chỉ có điều, lần này hảo thủ võ công đánh lên không ít, chết tên này tên khác tu bổ vào, tiếp tục đấu rát với Liễu Nhược Băng. Còn quân sĩ của địch dù bị chết khá nhiều vì vũ khí thủ thành, nhưng do quá đông, nên điểm đột phá ngày càng lớn.

    Trên thành lâu, hai bên bắt đầu triển khai trận chiến xáp là cà vô cùng khốc liệt.
     
  3. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 123: Chiến Tranh Và Đồ Sát
    Những hảo thủ võ công phát hiện Dương Thu Trì đang bắn lén, dùng ám khí chào mời họ, liền có mấy tên vung đao kiếm xông về phía hắn. Số này bị Dương Thu Trì dùng súng bắn chết hết 3 tên, nhưng súng bộ binh của hắn chỉ nạp có 5 phát đạn, nhanh chóng bắn sạch. Nhân lúc hắn nạp đạn khác, mấy địch quân đã xông tới trước, Lưu Dũng cùng mọi người vội vung đao kiếm nghênh kích. Dương Thu Trì không kịp lắp đạn, rất may là súng có trang bị lưỡi lê, nên hắn bật lê ra cùng mấy người đó đánh giáp lá cà.

    Chính vào lúc này, trong thành đã đại loạn. Tiếng quát giết đã vang lên khắp cả huyện thành. Thì ra, ba mặt thành khác do không phối bị hỏa pháo, lại không có siêu cao thủ như Liễu Nhược Băng bảo hộ, nên binh sĩ phòng thủ chỉ ít ỏi năm trăm người đối diện với địch quân đông gấp mười lần. Do đó, thành lâu ba mặt thay nhau thất hãm, địch quân từ ba phía tràn vào, đánh thốc vào trong thành.

    Dương Thu Trì dùng lê đâm chết hảo thủ của địch quân đối địch với hắn, nghe tiếng hò hét trong thành, biết thành đã phá, thở dài, Ai! Coi như công cốc rồi!

    Chính lúc tiếng pháo, tiếng hỏa súng và tiếng hò hét loạn thành một đoạn, thì ở dưới cầu thang dẫn lên mặt thành có tiển của lão hắc đầu: "Dương đại nhân! Dương đại nhân! Ngài ở đâu...? Súng tạo xong rồi!"

    Quay đầu lại nhìn, hắn thấy lão hắc đầu và các thíet ượng vác cây súng máy maxim lên thành lâu! Ngoài ra còn có các thiết tượng ôm mấy thùng đạn. Số đạn này đã đượng Dương Thu Trì dùng tút đạn 30 viên kết vào hết, có thể trự tiếp sử dụng.

    Dù chỉ là một cây súng mô phỏng, chưa thiết kế định hình, nhưng Dương Thu Trì đã chẳng màng gì nữa. Hắn được Lưu Dũng và các hộ vệ yểm hộ, bước tới vận thần công tiếp lấy súng máy từ vai họ, cho gác lên mấy thi thể hảo thủ của địch quân bị hắn đánh chết, mở thùng đạn lấy một băng lắp vào, điều thành bắn từng viên: "đoàng... đoàng... đoàng"

    Mấy tiếng nổ giòn tan vang lên, các hảo thủ võ công vây quanh Liễu Nhược Băng dùng đòn xa luân chiến thay nhau ngã rụi! Số còn lại bị Liễu Nhược Băng một chiêu chém rụng hết!

    Liễu Nhược Băng thoát khỏi đòn xa luận chiến, quay đầu vui vẻ nhìn Dương Thu Trì: 'Phu quân, thành lâu giao cho thiếp, chàng đi thu thập địch quân công đánh vào thành đi!" Tiếp đó nàng như luồng hồng quang bay đi, nơi nào đến cũng kiếm quang lấp lóe, vang lên không ngớt tiếng gào thảm của binh sĩ địch quân trước khi tử vong.

    Dương Thu Trì điều chuyển mũi súng, bắn từng tên địch đang bao vây A Hạnh Ny giãy chết hết.

    A Hạnh Ny chạy lại, bật khóc gọi: "Thu Trì ca...!"

    Dương Thu Trì không kịp an ủi con chim sơn ca kinh khủng, tiếp tục dùng chế độ điểm xạ (bắn từng viên) bắn địch quân trên thành lâu.

    Hắn đồng thời nói với Lưu Dũng và các hộ vệ: "Mã Lăng Vũ, Phó Quan và Hồ Thủy lưu lại, Lưu tướng quân lập tức mạng các huynh đệ trở về, một bộ phận đem những rương đạn và bình nước đến đây, hội hợp ở dưới thành lâu. Những người khác lưu lại trong nha môn bảo hộ nha hoàn Tuyết Liên của ta!"

    Lưu Dũng mang hộ vệ vội vã bỏ đi.

    Dương Thu Trì lại ra lệnh cho Mã Lăng Vũ dẫn hộ vệ xuống thành dọn đi một ít bao cát bít ở cửa thành.

    Mã Lăng Vũ không biết mệnh lệnh này có ý tứ gì, cũng không kịp hỏi, lập tức mang chúng hộ vệ xuống thành lâu.

    Dương Thu Trì biết súng máy bắn quét ngang sẽ có uy lực lớn nhất, từ trên thành lâu bắn địch quân trên thành sẽ thương hại tới người của mình, bắn từ trên xuống thì uy lực giảm mạnh. Hắn lập tức quyết định ra thành, từ mặt đất bằng phẳng trực tiếp bắn địch quân ngoài thành. Và ra khỏi thành đương nhiên phải xếp dỡ bao cát.

    Hắn lại bắn thêm một lúc nữa, diệt không ít địch quân tấn công lên thành lâu. Sau khi tính toán lượng bao cát đã dời đi khá nhiều, hắn vác súng máy xông xuống thành, A Hạnh Ny và tùy tùng cũng chạy theo.

    Đến dưới thành, thấy bao cát đã được dọn ra chỉ còn cao bằng đầu người, Dương Thu Trì cho Mã Lăng Vũ, Phó Quan và Hồ Thủy ba người cầm đao kiếm mở đường phía trước, bản thân vác súng nhảy qua bức tường bao cát, đến lổ hổng ở cửa thành, đặt súng lên trên một bao cát tại vị trí thuận lợi. Hắn thấy A Hạnh Ny theo bên cạnh, liền nhờ nàng làm nhiệm vụ tiếp đạn, dạy nàng làm cách nào liên tục cung cấp đạn cho súng máy. Sau đó, hắn nhanh chóng điều chỉnh súng bắn mỗi phút 300 viên, hai tay kềm lên, ngắm hướng và bóp cò: "Tạch tạch tạch tạch....."

    Họng súng máy maxim thè ra từng lưỡi lửa, quân địch đối diện lỗ trống trước cửa thành bị thu cắt mạng sống giống như lúa mạch, ngã rạp liên tiếp.

    Súng máy maxim được thiết kế vào thế kỷ 19, nhanh chóng đưa vào thật chiến. Vào năm 1893, 50 bộ binh Rhodesia đã sử dụng 4 cây súng maxim đánh lui 5000 quân Zulu tấn công mãnh liệt. Trận địa lưu lại 3000 thi thể của quân tiến công. Trong chiến tranh thế giới lần I, trong chiến dịch Tamoha, quân đức bình quân đặt một cây maxim mỗi 100 mét, dùng mật độ hỏa lực đó bắn điên cuồng vào 14 sư đoàn Anh quốc tấn công trong bình diện 40 km, trong vòng một ngày đã khiến 6 vạn binh sĩ Anh quốc thương vong! Súng máy maxim từ đó có danh xưng là "Máy xay thịt trên chiến trường", được coi là vũ khí giết người nhiều nhất trên thế giới.

    Dương Thu Trì không chân chính kiến thức qua sự lợi hại của vũ khí này trước đây. Giờ phút này, trên chiến trường cổ đại, hắn đã tự thân sử dụng và nghĩ tới đoạn có trình bày trong Bách khoa toàn thự về vũ khí trang bị:

    "Súng máy maxim xuất hiện đại biểu cho một thời đại kết thúc, những chiến thuật đã sử dụng từ thời Nã Phá Luân (Napoleon) đã hoàn toàn vô dụng rồi".

    Hiện giờ hắn đã minh bạch hàm nghĩa của câu nói này: quân đội cổ đại nếu đối diện với loại vũ khí siêu khủng bố này, chiến tranh không còn gọi là chiến tranh nữa, mà nên gọi là cuộc đại đồ sát!

    Đại quân của Trương Hiến Trung không biết cái động trên cửa thành có một tử thần khủng bố đang cười gằn. Do xung quanh đầy tiếng pháo, tiếng hỏa súng và tiến hò giết vang trời, nên tiếng súng máy vang lên nghe nhẹ và êm vô cùng. Nhưng thanh âm đó lại mang theo lưỡi hái tử thần, khi nó điểm tới thì sinh mệnh cũng bị cắt hái mang đi.

    Trong bóng tối trước khi trời sáng, tuy có lửa và pháo hỏa trên thành chiếu có thể nhận tình huống mờ mờ, nhưng trong lổ hổng ở cổng thành tối đen, không ai ngờ ở đó mai phục tử thần, và ai tấn công đến đó cũng đều ngã rạp. Không ai biết họ đối diện với vũ khí khủng bố gì, chỉ biết chiến hữu xung quanh ngã rạp gào thảm, thậm chí không biết tử vong từ đâu ra, không biết rốt cuộc là cái gì đoạt đi sinh mệnh của mình. Cho dù là đạn réo rít sát mang tai, hoặc là lật hộp sọ, bắn nát tay đùi, phá thủng bụng ngực, họ cũng không biết cái chết vô cùng kỳ dị thảm không thể tả này từ đâu mà ra. Các thi thể đó nhanh chóng bị những thi thể sau đè lên, che lắp!

    Tử thần như u linh từ trong khẩu maxim phỏng chế của Dương Thu Trì gầm thét bay khắp chiến trường, đem những linh hồn chú định phải chết đi thật nhanh.

    A Hạnh Ny chuyên tâm cung cấp đạn cho súng máy của Dương Thu Trì, không nhìn cảnh đó. Nhưng Lưu Dũng và các hộ vệ thấy địch quân ngã xuống chết như rạ, vừa mới đầu còn kích động hét cuồng, lát sau liền bị thứ tử vong trong một diện tích cực nhỏ và đầy khủng bố này làm cho sửng sờ, trợn trừng mắt, há hốc mồm!

    Nước lạnh trên nòng súng bị chưng thành khí cựcnhanh, nhanh chóng cạn nước. Dương Thu Trì vẫn còn rất bình tĩnh, lập tức phản ứng ngay. Nước lạnh trong thùng dẫn đã bị nhiệt lượng từ nòng súng bắn liên tục đốt bay hơi gần cạn rồi, nếu không đổ nước thêm vào, sẽ vỡ nòng.

    Dương Thu Trì dừng bắn, quát: "Lưu tướng quân, thêm nước!"

    Lưu Dũng căn bản không hề nghe. Y và các hộ vệ nhìn đờ đẫn ra ngoài thành, nơi có từng lớp tử thi mà phát ngốc. Vừa rồi những kẻ đó còn phát điên la hét bắn tên, hỏa súng, múa đao kiếm xông lên thành, nhưng chớp mắt sau họ đã thành những thi thể bầy nhầy đầy mái. Vừa rồi ngoài cổng thành còn đầy tiếng huyên náo, hiện giờ đã lặng lẽ đi nhiều. Chỉ còn những kẻ trọng thương kêu gào thảm thiết, nhắc nhở là họ vẫn còn sống.

    Dương Thu Trì vỗ lên đầu Lưu Dũng một cái mạnh, quát: "Lưu Dũng! Thêm nước cho súng! Có nghe chưa!"

    Lưu Dũng cuối cùng cũng phản ứng lại, vội đổ cả thùng nước lớn trên lưng vào bồn nước làm lạnh của súng máy maxim.

    Địch quân trước mắt gần như đã ngã chết hết. Dương Thu Trì lại vận thần công, ôm súng chui ra ngoài thành.

    Lưu Dũng cũng các hộ vệ không cần hắn ra lệnh, lập tức vác mấy bao cát ra để trước cổng thành, Dương Thu Trì gác súng máy lên đó, điên cuồng bắn quét hai bên phải trái.

    Cửa thành tuy chết mấy trăm địch quân, nhưng toàn bộ chiến trường vô cùng hỗn loạn, cộng thêm trời chưa sáng, tuy có khói lửa và đen đuốc trên thành chiếu sáng, nhưng dưới thành vẫn hôn ám, cho nên, địch quân hai bên thành không hề biết tử thần vừa chui khỏi lổ, đáng gầm thét bay tới chúng.

    Do trên thành không còn tạc đạn bằng đá của Dương Thu Trì ném xuống, do đó, địch quân bắt đầu tấn công dày đặc trở lại. Chúng đem thang dây bắc treo lên thành. Những tên phía sau thì từ dưới bắn tên lên, bắn hỏa súng, và hò hét trợ uy. Chính vào lúc này, súng máy maxim của Dương Thu trì lại bắt đầu lên tiếng, khạc đạn như mưa trút xuống người chúng.

    Dương Thu Trì biết tổng số đạn của mình không tới 6000 viên, cho nên không bắn càn, mà chọn chỗ địch nhiều nhất tiến hành bắn quét. Loại đạn này có lực xuyên thấu rất mạnh, trong đám người dày đặc như vậy, một viên có thể dễ dàng xuyên qua ba bốn địch nhân. Hắn chọn bắn quét chứ không phải bắn tỉa là vì tránh từ một chỗ bắn những hai viên vào người địch nhân, tranh thủ mỗi viên đạn giết ít nhất một tên, tránh lãng phí.

    Chiến trường cổ căn bản không ai biết cái gì là súng máy hạng nặng, và cũng chưa hề nghe qua hỏa súng có thể bắn đạn vượt cự li một tầm tên. Thời Minh mạt cơ bản vẫn còn là thời đại lãnh binh khí, uy lực của hỏa pháp và thuốc nổ vẫn còn hạn chế. Hỏa súng chỉ có thể bắn xa mấy chục bước, do đó, họ cơ bản không cần dùng cách lăn lê bò lết để tránh né các đạn nổ và tử đạn. Bọn họ hầu như không có ý thức nằm bò xuống để tránh đạn, vẫn đứng phóng tên và bắn súng lên thành lâu. Và cho dù có ai đó phát hiện tình huống không ổn, cũng không biết làm cách nào tránh nụ hôn của tử thần, để rồi hết kẻ này đến kẻ khác cứ mặt cho lưỡi lửa của súng máy Maxim líêm tới, ngã vật xuống đất về chầu ông trời.
     
  4. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 124: Trảm Soái Đoạt Kỳ
    Dương Thu Trì cảm giác bản thân hiện giờ giống như một thợ hớt tóc, trên tay cầm một cái dao cạo cực bén, dù nước ấm phun xịt cho đầu tóc ướt xong, nhẹ lướt lưỡi dao, từng lọn tóc thi nhau rơi xuống. Dao đến đến lông tóc rụng sạch đến đó, sát tận da đầu! Và dưới tầm càn quét của cây súng maxim hạng nặng, không có ai có thể đứng vững.

    Hắn nhắm hai bên phải và trái cổng thành bắn dồn, trong thời gian cạn một chung trà, hai bên cửa thành phía tây mấy trăm mét ngoại trừ hàng nghìn thi thể chồng chất, không có người nào sống sót!

    Thủ quân trên thành bị sự tình phát sinh bên dưới ngẩn cả ra. Bọn họ mới đầu còn không biết vì sao địch quân đột nhiên ngã ra chết. Chờ khi dưới thành người chết ngày càng nhiều, tiếng hò hét, tiếng hỏa súng ngày càng ít, chỉ có tiếng gầm thét tạch tạch của súng máy hạng nặng trong tay Dương Thu Trì, lúc này họ mới biết thì ra là thứ vũ khí như xuất phát từ chỗ tử thần đến nằm trong tay Dương Thu Trì thoáng chốc đã lấy đi tính mạng hàng nghìn địch nhân! Và thế là, một truyền mười mười truyền trăm, thủ quân khắp thành đều biết bên mình có lưỡi hái tử thần chuyên gặt hái sinh mệnh địch nhân, có thể chớp mắt cắt đi vô số đầu địch!

    Trong chiến tranh thời cổ đại, sĩ khí vô cùng trọng yếu. Quân đội có sĩ khí cao thường có thể lấy ít thắng nhiều. Và sĩ khí chủ yếu đến từ lòng tự tin tất thắng nhất. Sự tự tin đối với thắng lợi khiến người ta bạo phát lực lượng mà ngày thường họ không ngờ.

    Do đó, thủ quân trên thành lâu bắt đầu phản kích mãnh liệt địch quân xông được lên mặt thành hoặc đã vào trong thành. Tin tức này cũng nhanh chóng truyền khắp toàn thành, nên bá tánh trong thành sục sôi lên. Và khi chuyện đó truyền đến tai bá tánh, thì chuyện thường đã trở thành bất thường, cố sự đã trở thành thần thoại. Họ truyền tai nhau rằng, vị trượng phu của bạch y nữ hiệp suýt giết chết Trương Hiến Trung trong trận huyết chiến ở Phượng Dương Thành mười năm trước, và cũng là tân nhiệm thủ bị của Kiềm Dương huyện Dương Thu Trì, đã cầm trong tay một quái thú hung mãnh. Miệng có quái thú chỉ cần há ra, là có thể phóng vô số quái thú nhỏ, chớp mắt có thể cắn chết cả trăm địch quân. Hiện giờ, mặt tây thành thi thể của địch quân đã chất chồng thành núi. Mặt tây thành đã không còn địch quân tiến công, bỡi vì tất cả đều bị quái thú của Dương thủ bị tiêu diệt!

    Thứ thần thoại này có lúc có tác dụng làm tê liệt và an ủi sự hoảng sợ của con người. Do đó, bá tánh trong thành sôi sục, đều cùng vác gậy gộc dao búa tham gia chống cuộc hạng chiến vô cùng kịch liệt với hàng nghìn địch quân từ ba mặt thành đánh vào.

    Trong thời lãnh binh khí, một binh sĩ tay cầm đao chẳng mạnh hơn dân chúng cầm dao phay bao nhiêu, đặc biệt là đấu chiến cận thân trong những con đường hẹp. Địch quân xông vào phần lớn là cầm trường mâu, vốn cho là đại binh đã phá thành, bá tánh sẽ như con dê im lìm quỳ xuống để mặc cho chúng chém giết. Thật không ngờ, ở Tương Tây dân tộc thiểu số người Miêu và người Đồng rất nhiều, và hán tộc tạp cư cũng bị phong tục địa phương ảnh hưởng, nên biến thành bưu hãn vô cùng. Điểm này có thể giải thích vì sao trong chiến tranh giải phóng Trung Quốc sau này, thổ phỉ ở Tương Tây nổi tiếng toàn quốc về sự hung hãn thiện chiến. Hiện giờ, dân chúng ở đây có hai vợ chồng bạch y nữ hiệp lãnh đạo, cộng thêm một quái thú khủng bố biết cắn người hỗ trợ, lại có mấy nghìn Đồng quân và Minh quân, đã dậy lên niềm hi vọng sống còn, nên phàm ai có thể động đậy đều xách vũ khí đánh bừa với địch quân.

    Và thế là mấy nghìn địch quân đánh vào trong thành rơi vào biển người mấy vạn bá tánh đang tiến hành chiến tranh nhân dân với chúng. Điều khác biệt sau khi thành phá ở những lần trước là, trong lần này, ở đầu đường cuối hẽm đều là xác chết của tướng sĩ địch quân công vào thành. Đến chết chúng cũng không thể nào tin là mình đã bị dao phay, gậy gỗ, thậm chí đá cụi tước đoạt sinh mệnh!

    Lúc này, ánh ban mai cuối cùng đã chiến thắng hắc ám, trời đông đã lộ mây vải cá báo hiệu một buổi bình minh mới sắp bắt đầu. Ngoại cửa tây thành, sau khi địch quân mấy trăm mét chung quanh Dương Thu Trì đã bị diệt sạch, mượn ánh sáng mờ mờ, hắn nhìn thấy ở xa xa có không ít địch quân hoảng hốt cùng vô số chiến mã, thiết giáp kỵ binh... Giữa những khải giáp sáng choang và mã đao lóe hàn quang đó, có một ngọn cờ viết chữ Soái cao cao, càng lúc càng rõ ràng dưới ánh bình minh rực rỡ.

    Cờ chữ Soái! Đó nhất định là quan chỉ huy của địch quân rồi! Còn có những khẩu hồng di đại pháo làm hắn cắn răng nữa.

    Dương Thu Trì hai mắt phún hỏa, vác cây súng máy Maxim lên, như phát điên xông thẳng tới phương hướng lá cờ chữ Soái của địch quân. A Hạnh Ny vác một rương đạn, Lưu Dũng và các hộ vệ vác thùng nước, rương đạn thở khì khì chạy sát theo sau.

    Địch quân thấy họ chỉ có mười mấy hai mươi người, không có vũ khí gì lại dám xông về phía đại quân của chúng, đều không biết rốt cuộc là thế nào. Bọn chúng không biết kẻ xông ở trước nhất, vác cái ống tròn tròn có bánh xe như con ngựa trời to lớn đó chính là tử thần đã tước đoạt sinh mệnh hàng nghìn tướng sĩ của chúng. Thực ra thì, những kẻ biết đấy là tử thần đều đã bị tử thần mang đi sạch hết rồi!

    Dương Thu Trì xông lên mấy trăm mét, khi cách địch quân hai ba trăm mét nữa thì dừng lại. Lưu Dũng và mọi người lập tức chạy theo đến, không cần dạy bảo dặn dò, đã khuân mấy thi thể của quân sĩ địch chất đống lại. Dương Thu Trì kê súng máy maxim lên đống xác chết này, mũi súng lập tức phun ra từng lưỡi lửa và tiếng gầm giận dữ, bắn quét qua lại vào đám đông địch quân.

    Tiếng gào thảm, tiếng gào cực kỳ thảm thiết và khủng khiếp vang lên cùng với tiếng súng không ngừng nghĩ. Đại đa số địch quân đều chỉ kịp gào một tiếng là như bị lèn chặt cổ bóp chết, không có một tiếng rên.

    Cho dù là gặt hái lúa mạch lúa nước cũng không nhanh nhẹn và sướng khoái như vậy. Từng lớp từng hàng, từng đội địch nhân lân lượt ngã xuống. Hỏa súng thủ, cung tiễn thủ trước khi chết còn cố gắng phóng tử đạn và tên về phía họ, nhưng chỉ không tới phân nửa cự li thì đã rơi xuống đất. Hồng di đại pháo nặng nề và cao, cứ giương lên hổ thị đam đam nhìn vào thành lâu phía xa xa, chứ không biết nguy hiểm chực chờ ngay dưới chân chúng.

    Thực ra thì loại pháo này chỉ có thể lợi dụng đạn đạo để bắn xa, chứ không cách gì nhanh chóng chuyển thành bắn ngang, càng không thể bắn vào mục tiêu chỉ cách hai ba trăm mét. Do đó, chúng như mãnh hổ bị xích sắt trói chặc, cứ mặc cho chó gấu em trai mang tên Maxim gầm gừ làm nhục.

    Trời đã sáng, địch quân ở xa cuối cùng nhìn rõ, thì ra những người từ trong thành xông ra mang theo vũ khí quái dị này đã đoạt sinh mệnh của quá nhiều tướng sĩ bên chúng. Trong khi đó, hỏa súng, cung tên không cách gì làm họ biện thương. Lúc này hỏa pháo càng vô dụng, duy nhất hữu dụng đó là kế hay nhất trong tam thập lục kế - chạy là thượng sách!

    Quân đội của Trương Hiến Trung vốn kỷ luật nghiêm minh, cho dù có triệt thối cũng phải tiến hành rất trật tự. Nhưng mà, tận mắt chứng kiến cả nghìn người chớp mắt chết đi, lại thấy vũ khí quái dị như gió thu quét sạch lá khô biến hàng loạt tướng sĩ phía trơớc ngã như rạ, tử vong khủng bố lập tức phủ trùm toàn quân. Chúng chẳng còn quan tâm cái gì là tiền quân cái gì là hậu quân, cái gì là hậu quân biến thành tiền quân, tiền quân yểm hộ hậu quân triệt thối nữa, nhân vì chúng chỉ có thể bị đánh mà không thể đánh trả, chẳng có thể yểm hộ được ai, cho nên tất cả như bầy kiến vỡ ổ, hoảng loạn chạy dài.

    Tướng lĩnh chỉ huy dưới soái kỳ quyết định liều một phen. Trống trận vàng lên, hơn nghìn thiết giáp kỵ binh gào rú xông tới họ, muốn lợi dụng tốc độ của kỵ binh để xung kích, chém chết họ!

    Dương Thu Trì rống to: "Đến hay lắm!"

    "Tạch tạch tạch... Tạch tạch tạch... Tạch tạch tạch... Tạch tạch tạch..." Súng máy maxim điên cuồng khạc lửa. Tuy chỉ có cự li mấy trăm mét, và cùng bắt đầu bằng chữ M, nhưng tốc độ của Mã (ngựa) chẳng thể nào sánh với tốc độ đạn bắn ngược lại từ khẩu Mã...xim! Dù thiết giáp kỵ binh có khải giáp nặng, nhưng giáp này căn bản không chống được đan bắn với tốc độ cao, vẫn bị xuyên thấu thi thể, chui ra sau lưng rồi tiếp tục cắm vào thân thể phía sau.

    Đạn quét qua, hàng ngựa chạy trước ngã nhào, đè vào đám bộ binh phía trước đang chạy ngược lại. Các chiến mã phía sau đã được huấn luyện kỹ, phóng người bay qua khỏi chiến hữu, tiếp tục xông lên. Nhưng mà, đạn của súng Maxim quét qua giống như dây cản ngựa vô hình, cứ cản ngã chúng hết. Chiến mã trúng đạn hí dài muốn chồm dậy, nhưng cuối cùng vô lực ngã xuống. Trọng giáp kỵ binh rơi xuống đất, có lớp thì bị té ngất đi, có lớp thì bị trực tiếp trúng đạn theo tử thần đi trước một bước, có lớp may mắn gương đứng lên định chạy về sau, nhưng mới chạy mấy bước đã bị tử đạn đuổi theo bắn trúng, ngã trong vũng máu.

    Tử đạn chéo chéo như mưa rào, thiết kỵ giáp nặng vốn là đội vô địch chi sư càn quét chiến trường, nhưng giờ lại bị súng máy maxim điên cuồng khạc lửa càn quét lại, trở thành như ông già chín mươi, khựng lại, ngã dúi, bò lên, lại ngã... Trường cảnh trước mắt khiến Dương Thu Trì nhớ lại những phim ảnh bi tráng về quân nhà mạt Thanh cố sức kháng kích liên quân tám nước xâm lược - quân xâm lược người mặc quân phục sáng ngời, dùng súng máy hướng vào tướng sĩ thiết giáp thuộc Bát kỳ quân của Thanh triều mà càn quét, giết sạch họ. Hoàn cảnh đó so với giờ cũng chẳng khác gì!

    Hắn hi vọng một ngày nào đó sẽ dùng cây maxim này càng quét đám quốc gia tây phương mũi lỏ mắt xanh dám khi nhục dân Trung Quốc của hắn xưa kia, à không, sau này, khiến cho chúng biết thử sự thống khổ và sỉ nhục của Trung Quốc vào hai trăm năm sau là như thế nào!

    Cuối cùng, dưới cờ soái vang lên tiếng thanh la thu quân! Đến lúc này, tướng sĩ địch quân đã loạn thành một đoàn, càng chạy như đàn trâu điên bị lửa đốt vào mông.

    Dương Thu Trì sao có thể để chúng dễ dàng bỏ chạy. Tầm bắn hữu hiệu của súng máy hạng nặng Maxim này lên đến 1000 mét, nếu sử dụng đạn thường với thước đo có thể đạt 2500m. Cờ soái đang trong tầm bắn của hắn!

    Dương Thu Trì đem trọng điểm càn quét bắn về hướng có cờ soái!

    Bắn quét trong đám người tập trung dày đặc như vậy giống như canô lướt qua mặt hồ, hắn nhanh chóng tạo ra một khoảng trống do ngã rạp thật nhanh - hai bên là địch quân chạy như điên, ở giữa là thi thể ngã rạp. Lớp người ngã nhanh chóng tiến lên, xuất hiện tới cờ lớn có chữ soái (帅)!

    Từ xa, hắn thấy có mấy đại tướng mặc khôi giáp dưới cờ thấy tướng sĩ phía trước đua nhau ngã rạp, hoảng hốt quay đầu ngựa định chạy. Nhưng động tác của họ sao nhanh bằng tốc độ của đạn, lập tức đua nhau ngã xuống ngựa, ngay lá cờ lớn đó cũng ngã theo.

    Chủ tướng bị giết, đại kỳ đã ngã, chiến trường tức thời đại loạn, binh sĩ địch quân chỉ còn biết hận cha mẹ sao không sinh cho thêm mấy cặp giò để chạy cho nhanh.

    Dương Thu Trì chuyển sang bắn theo hình rẻ quạt, hai mắt đỏ ngầu. Khi địch quân chạy ra khỏi tầm bắn, hăn vác súng lên định đuổi theo, nhưng A Hạnh Ny ỏ bên cạnh vội hô lớn: "Thu Trì ca, chỉ còn rương đạn cuối cùng!"

    Nhìn miệng nàng nói, đưa tay mở miếng vải nhét lổ tai ra nghe cho rõ hơn, Dương Thu Trì ngẩn người đặt súng xuống, quay lại nhìn, thấy Lưu Dũng và mọi người đều hai tay trống lốc, bên người nằm ngổn ngang mấy rương đạn trống!

    Hắn rúng động người, nhìn về phía A Hạnh Ny, rất may là trước mặt nàng còn có một rương đạn đầy. Rương này nhiều lắm cũng chỉ có 500 phát, như vậy là hắn đã bắn hơn 5000 phát đạn rồi! Không thể bắn nữa, số đạn này cần phải giữ lại đề phòng.

    Hắn nhìn địch quân như luồng hồng thủy ôm đầu rút đi mà không thể truy kích, lòng cảm thấy hơi tiếc.
     
  5. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 125: Ba Vị Vương Gia
    Lưu Dũng thấy địch quân đã chạy xa, hỏi: "Dương gia, thuộc hạ đi cắt đầu của mấy tướng soai địch quân, được không?"

    "Được chứ!"

    Lưu Dũng mang hai hộ vệ chạy đi cắt đầu tướng địch.

    Dương Thu Trì nhìn hơn hai chục khẩu đại pháo địch quân bỏ lại, lòng nghĩ số này là đồ tốt, không thể để lạc vào tay địch nhân, bèn quay lại bảo A Hạnh Ny: "Chờ lát về thành diệt hết địch trong thành xong, em lập tức mang Đồng binh giúp ta kéo mấy khẩu hồng di đại pháo này về bảo quan, chờ ta thành lập đoàn luyện xong cần dùng."

    "Dạ được, Thu Trì ca." A Hạnh Ny ngọt ngào đáp ứng.

    Dương Thu Trì nhìn về hướng địch quân bỏ chạy, tựa hồ không phải là nơi chúng hạ trại, mà là hoảng loạn bỏ trốn. Hắn tổ kiến quân đội đang thiếu trang bị, vừa khéo có thứ này, liền vội nói: "Ny nhi, lúc vận chuyển pháo, em phái thêm một đội ngũ truy tung địch quân, coi xem đại doanh của chúng còn không, có thứ gì tốt hãy vận chuyển về hết. Còn nữa, lúc thu dọn chiến trường đừng quên thu thập hết vỏ đạn về giao cho ta, ta còn phải nhồi làm trở lại nữa."

    "Vâng...! Được ạ!" A Hạnh Ny sùng bái nhìn Dương Thu Trì, lòng nghĩ hắn vừa diệt mấy nghìn địch nhân mà mặt không đổi lòng không run, thật không biết làm sao đạt được như vậy. A Hạnh Ny không biết Dương Thu Trì là pháp y xuyên việt chuyển thế đến đây, đã sớm quen với sinh tử.

    Dương Thu Trì quay đầu nhìn vào thành, tuy vẫn còn nghe tiếng chém giết, nhưng thanh âm đã ít ỏi hẳn lại, không biết thắng bại thế nào, không biết tình huống của Băng nhi, Tuyết Liên, tiểu quận chúa thế nào.

    Lát sau, Lưu Dũng cùng hai người xách mấy cái đầu trở về. Lưu Dũng còn vác một cây cờ soái lớn. Dương Thu Trì vác súng máy chạy trở về thành, A Hạnh Ny cùng mọi người theo sát sau.

    Chạy về dưới thành lâu, Dương Thu Trì nguớc mắt nhìn, thấy trên lâu thành vẫn còn tung bay cờ của Đại minh, người trên đó hầu hết là Đồng quân mặc phục trang dân tộc và Minh quân, biết là thành trì còn nằm trong tay, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhỏm.

    Du kích tướng quân Long Bỉnh vui mừng chạy xuống dưới thành, chụp tay Dương Thu Trì lắc lư mừng rỡ: 'Dương đại nhân! Vũ khí quái thú của ông thật là lợi hại, khiến ta nhìn đến đơ mắt luôn! Ha ha ha, lần này quả là nhờ ông rồi, nếu không chúng ta..."

    "Nương tử của ta đâu?" Dương Thu Trì cắt ngang lời y.

    "À, tôn phu nhân đã đánh vào trong thành, tham dự chặn giết địch quân vào thành rồi..."

    Chính vào lúc này, hắn chợt nghe tiếng ồn ào như thủy triều ùa đến, vô số địch quân chen chúc chạy về phía này.

    Thì ra, địch quân đánh vào thành bị rơi vào thế chiến tranh nhân dân như rừng như biển, đành mạnh ai nấy đánh, tử thương vô số.

    Khi nghe đại quân đánh chiêng thu quân, địch quân chưa đánh vào thành đã đua nhau triệt li, quân đánh vào thành rồi vốn đã không có đấu chí gì, liền tụ tập lại con đường chính xông về phía tây, muốn đột vây xuất thành hội hợp với chủ quân. Lúc này, số đang xông về phía bọn Dương Thu Trì chính là địch quân toan tính đột vậy này.

    Dương Thu Trì lập tức cho gác miệng súng máy, tiến hành bắn quét mãnh liệt về phía địch quân! Đồng quân và Minh quân trên thành lâu cũng kéo xuống tăng cường ngăn chặn.

    Do địch quân chen đặc trên đường chính, dòng người quá dày, nên lần này bắn quét tạo ra lượng tử thương rất lớn.

    Rất may là đạn không còn nhiều, Dương Thu Trì chỉ bắn bắn dừng dừng, mục đích là muốn ngăn chặn địch quân.

    Hắn vừa bắn vừa bảo Lưu Dũng tổ chức cho kêu gọi và mệnh lệnh địch quân đầu hàng.

    Lưu Dũng lấy cờ soái của địch quân ra giương lên, còn bọn hộ vệ thì giơ cao đầu lâu của tướng địch, hô lớn: "Đại soái của các ngươi đã bị tru diệt! Soái kỳ đã bị đoạt, còn không quỳ xuống đầu hàng!"

    Sau khi thấy địch quân phía trước ngã rạp vô số, địch quân phía sau thấy không có cách gì đột vây, đã rơi vào thế bao vây trùng trùng của quân dân, liền có kẻ sợ chết quỳ xuống đầu hàng, hét lớn xin tha mạng.

    Có kẻ dẫn đầu, một loạt địch quân làm theo, đua nhau quỳ xuống. Vẫn còn có kẻ hung hãn ngoan cố vẫn muốn đánh giết xông lên, nhưng chưa kịp chạy tới trước đã bị Dương Thu Trì dùng cách điểm xạ bắn chết.

    Đồng quân và Minh quân vây tiễu từ bốn phương tám hướng kéo đến, ngoài ra còn có vô số dân chúng tay cầm dao rựa bao vây địch quân ở các đường lớn đường nhỏ. Người cổ không hề có ba đại kỷ luật tám điều chú ý, cũng không có ý thức ưu đãi tù binh gì, cho nên địch quân đầu hàng rồi mà vẫn chịu khổ không ít, hơi có chút bất mãn là lập tức bị giết.

    Long Bỉnh là lão tướng sa trường, biết nên xử lí chiến phu ra sao, lập tức dẫn đầu bộ hạ đi thu bắt chiến phu, thu dọn chiến trường, làm rõ tình huống tử thương của hai bên, rồi dùng bao cát lấp cổng thành trở lại, sắp bày phòng ngự bốn phía, đồng thời phái thám mã đi điều tra hướng chạy của địch quân.

    Dương Thu Trì không biết những thứ này, cũng lười quản, ngóng cổ nhìn quanh tìm kiếm Liễu Nhược Băng, thì nàng như con đại nhạn nhẹ nhàng phóng từ đỉnh phòng một nhà xuống trước mặt hắn, bạch y đã nhiễm hồng máu địch nhân, nhưng lần này không thảm hại như lần chiến đấu suốt hai ngày hai đêm mấy hôm trước.

    Dương Thu Trì ôm vòng eo thon của nàng: "Băng nhin, nàng có sao không? Không bị thương chứ?"

    "Không! Phu quân thì sao?"

    Dương Thu Trì cười lắc đầu. Liễu Nhược Băng nhìn lên nhìn xuống tra xét khắp người hắn, thấy hắn bình an vô sự, bấy giờ mới yên tâm.

    Dương Thu Trì lo lắng cho Quách Tuyết Liên còn ở trong nội nha, định về xem, Liễu Nhược Băng đã cười hàm tiếu: "Thiếp biết là chàng không bỏ được ả Tuyết Liên đó mà, phu quân an tâm đi, Tuyết nha đầu bình an vô sự."

    Dương Thu Trì cả mừng, nhưng ngượng ngập nói: "Kỳ thật ta không có, ta là lo cho ba vị vương gia mà."

    "Thiếp biết, phu quân chàng hiện giờ là mệnh quan triều đình rồi, ba vị vương gia ở trong thành do chàng thủ bị, nếu có mệnh hệ nào chúng ta không chịu trách nhiệm nỗi đâu. Do đó, thiếp nhất mực giết địch ở gần nha môn, chủ yếu bảo hộ Tuyết Liên, thuận tiện bảo hộ ba vị vương gia và tiểu quận chúa, bọn họ đều bình an vô sự. Chàng cứ yên tâm đi."

    Đang nói chuyện, mấy Minh quân hộ vệ vội chạy đến bẩm báo với Dương Thu Trì và Long Bỉnh: "Hai vị đại nhân, ba vị vương gia và tổng binh đại nhân có lời thỉnh."

    Dương Thu Trì làm thủ bị mấy ngày nay rồi, nhưng do mãi bận chế tạo đạn, còn chưa đến gặp qua ba vị vương gia. Bọn họ cũng không triệu kiến hắn. Hiện giờ hắn nghe nói ba vị vương gia và tổng binh có lời thỉnh, nhớ tới gương mặt mê gái của tổng binh, lòng không vui chút nào, nói với Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, địch quân đào tẩu có động hướng không rõ, nàng ở lại thành lâu bảo hộ, vi phu đi bái kiến ba vị vương gia."

    Liễu Nhược Băng gật đầu, dặn dò mấy câu rồi lên thành lâu.

    Dương Thu Trì bảo A Hạnh Ny thu dọn chiến trường, bảo Lưu Dũng cùng các hộ vệ vác theo súng máy Maxim theo Long Bỉnh đến huyện nha, thuận tiện đi an ủi tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên vẫn còn kinh hồn chưa định trước, đặt súng máy và đạn xuống, lưu một bộ phận hộ vệ bảo hộ, sau đó mới đến nội trạch của tri huyện.

    Ngoài nội nha, mấy trăm Minh quân canh gác chặt, chỉ cho Dương Thu Trì và Long Bỉnh vào trong.

    Trong phòng khách, ba vị Phúc vương, Huệ vương và Quế vương đang ngồi ở giữa. Tổng binh Khổng Hi Quý ngồi hầu một bên.

    Long Bỉnh bước tới quỳ dập đầu: "Mạt tướng Long Bỉnh khấu kiến ba vị vương gia, tham kiến tổng binh đại nhân."

    Dương Thu Trì chỉ chấp tay xá xa: "Ti chức Dương Thu Trì xin chào ba vị vương gia, tổng binh đại nhân."

    Tổng binh Khổng Hi Quý sầm mặt: 'Dương đại nhân, ba vị vương gia là thiên tuế, ngươi vì sao không quỳ?"

    Dương Thu Trì cười mà thịt không cười: "Ti chức vừa rồi đánh giết một trận, eo mỏi rồi, không thể nào quỳ, thỉnh ba vị vương gia thông cảm." Hắn biết Đại minh sắp sửa tiêu đời, gặp Sùng Trinh đế hắn còn kính ông tả treo cổ ở Môi Sơn tuẫn quốc dập đầu lại thì được, chứ ba lão già vương gia này mà bảo hắn quỳ là tuyệt đối không, dù gì, kiếp trước hắn cũng là siêu phẩm trấn quốc công, gặp vương gia cũng không cần quỳ, cho nên mới tìm cớ nói vậy.

    Đôi mắt tam giác của Khổng Hi Quý lộ hung quang: "Sao hả? Dương đại nhân muốn ỷ công ngạo mạn hay sao?"

    "Thôi vậy..." Quế vương Chu Thường Doanh ho khan mấy tiếng, xua tay, "Long tướng quân cũng đứng lên, ngồi nói chuyện."

    Khổng Hi Quý bấy giờ mới im miệng.

    Chờ Long Bỉnh và Dương Thu Trì ngồi xong, Chu Thường Doanh mỉm cười hỏi: "Hai vị đại nhân, chiến huống thế nào?"

    Tuy trước mặt ba vị đều là vương gia, nhưng có sự khác biệ. Phúc vương là cháu của Minh Anh Tông, bà con xa với đương kim hoàng thượng. Huệ vương và Quế vương là con trai của Minh Thần Tông, là thân hoàng thúc (chú ruột vua) của Sùng Trinh hoàng đế. Huệ vương đứng hàng thứ sáu. Quế vương đứng hàng thứ bảy. Như vậy có thể nói, Huệ vương và Quế vương là anh em ruột với cha của Sùng trinh đế là Minh Quanh tông Chu Thường Lạc, quan hệ gần hơn Phúc vương nhiều. Do đó, có mặt hai người, Phúc vương thường không mở miệng.

    Huệ vương tuy là anh của Quế vương, nhưng Huệ vương Chu Thường Nhuận từ nhỏ quy y phật pháp, suốt ngày tham thiền lễ phật, không thông sự vụ nhân gian, đối với triều chánh không biết gì, cho nên, trong trường hợp này, đệ đệ của ông ta là Chu Thường Doanh đóng vai trò quyết định.

    Khổng Hi Quý nháy mắt với Long Bỉnh, chen lời: "Long tướng quân, ngươi đem chuyện mấy nghìn quân Đại minh chúng ta đánh lui mấy vạn Trương tặc quân thế nào bẩm báo lại cho ba vị vương gia nghe."

    Ý tứ trong lời Khổng Hi Quý rất rõ ràng, lão nhất mực ở cạnh ba vị vương gia, không tự tham tham dự chỉ huy tác chiến, nhưng Long Bỉnh là bộ tướng của lão. Long Bỉnh chỉ huy cũng chẳng khác gì lão chỉ huy. Lão cũng không biết địch quân bị đánh lui như thế nào, nhưng mà cứ giành công lao trước cái đã rồi tính sau, đó là cách làm trước giờ của lão.

    Dương Thu Trì tủm tỉm cười, cũng không giành nói gì. Hắn chỉ là thủ bị, còn Long Bỉnh là du kích tướng quân, cao hơn hắn một cấp, đương nhiên phải do Long Bỉnh hồi báo. Hắn tin Long Bỉnh sẽ không đem công lao giành hết.

    Long Bỉnh tuy là bộ tướng của Khổng Hy Quý, nhưng là người chính trực, huống chi hai lần tác chiến đều do Dương Thu Trì lực chống sóng cuồng, có thể đánh lui địch quân gấp mấy lần, công đầu vô luận thế nào cũng không thể ở trong tay của Minh quân.

    Vì thế, y cứ theo tình huống tác chiến như thật mà báo cáo, đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của Liễu Nhược Băng thủ thành, Dương Thu Trì dùng tạc đạn và vũ khí quái thú biết cắn người như trong truyền thuyết xoay chuyển cả cục thế khi thành bị phá.
     
  6. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 126: Chiêu Binh Mãi Mã
    Ba vị vương gia nghe đến trợn mắt há mồm. Khổng Hi Quý tuy lòng dạ nhỏ nhen, trách Long Bỉnh không án chiếu ý nguyện của mình mà cướp công, nhưng địch quân phá công vào thành rồi mà vẫn bị đánh tan là chuyện lão trước giờ chưa hề nghe thấy. Vốn ra mấy người của lão hiện giờ đã trở thành tù binh, nhưng nhờ Dương Thu Trì một mình xoay chuyển tình thế. Do đó, trong lòng lão vẫn còn chút cảm kích, cộng thêm khi nghe nói Dương Thu Trì có một vũ khí quái thú, có thể chốc lát giết vô số địch quân, lão càng kinh ngạc và kính sợ Dương Thu Trì thêm mấy phần, không dám quá đáng nữa. Dù gì Dương Thu cũng là do lão đề bạt lên. Hắn lập công, bản thân lão dù sao cũng có công tiến cử!

    Quế vương Chu Trường Doanh gật đầu lia lịa, vô cùng khen ngợi nhìn kỹ Dương Thu Trì một lúc, nói: "Hắc hắc hắc, xem ra hai vợ chồng Dương đại nhân giết chết địch không ít nha! Trận này tình huống thương vong địch ta thế nào?"

    Điều này là thứ mà ba vị vương gia và tổng binh Khổng Hy Quý quan tâm nhất, nhân vì điều này liên quan đến còn bao nhiêu quân đội để bảo vệ an toàn cho họ.

    Long Bỉnh đáp: "Sơ bộ thống kế, địch quân tổng cộng ba vạn, từ phía Tây đào tẩu khoảng 1 vạn 5 nghìn người, đánh vào thành rồi bị vũ khí quái thú của Dương đại nhân chặn đứng buộc phải đầu hàng đại khái có ba bốn nghìn quân. Còn lại đều bị quân ta tiêu diệt hết. Ở ngoài tây thành, số địch quân bị vũ khí quái thú của Dương đại nhân giết chết đến năm sáu nghìn người hơn!"

    Dương Thu Trì cả kinh, lòng nghĩ có nhiều như vậy thật không. Tính kỹ lại, hắn cảm thấy có thể lắm, bỡi vì hắn sắp bắn hết sáu nghìn viên đạn, do địch quân tập trung dày đặc, khi bắn quét rất hiếm khi đạn bắt hụt, có viên bắn xuyên ba bốn địch quân, đương nhiên cũng có địch quân trúng một lúc ba bốn viên. Như vậy tính ra, gần như là một viên đạn giết một tên địch.

    Ba vị vương gia tâm tình mừng rỡ, đều nhẻn miệng cười tóet. Quế vương lại hỏi: "Quân ta thương vong thế nào?"

    Nói đến vấn đề này, giọng nói của Long Bỉnh trở nên trầm trọng: "Trong trận chiến trước bình minh, quân đại Minh của ta chết gần hết, một nghìn năm trăm người chỉ còn lại hơn ba trăm, trong đó phần lớn đã thụ thương nặng nhẹ khác nhau..."

    Sắc mặt của tổng binh Khổng Hi Quý chẳng dễ coi chút nào. Điều này cho thấy, lão lập tức trở thành quan tư lệnh trơ cành trụi lá không còn một mống quân nào. Ba vị vương gia sắc mặt biến hẳn, kinh khủng nhìn nhau. Quế vương Chu Thường Doanh hỏi: "Còn Đồng quân?"

    "Đồng quân thương vong cũng rất lớn, theo ti chức tính toán, xem ra đã tổn thất hơn nửa, còn lại chỉ hơn hai nghìn người là không tệ rồi. Ngoài ra, bá tánh tham chiến trong thành cũng tử thương mấy nghìn người."

    Đến lúc này thì mặt của ba vị vương gia cắt không còn chút máu.

    Huệ vương Chu Thường Nhuận tuy ăn chạy niệm phật, như là kẻ nhát gan sợ chết nhất, nói chuyện đã run lập cập, hỏi: "Cái này... cái này làm sao cho phải đây? Có thể điều đại quân từ các phủ huyện gần đây tăng viện không?"

    Long Bỉnh lắc đầu: "Các thành trì ở miệt Tương Tây vốn đã không còn trọng binh cố thủ. Khi Trường Sa gặp nguy cơ, những quân đội có thể điều phái đều được rút đến Trường Sa và An Khánh để phòng thủ. Chính vì không có binh để dùng, bấy giờ mới chinh triệu quân đội thổ ti để phòng ngự Thần Long quan a."

    Mặt Huệ vương co giật, chuyển sang nói với Quế vương, "Hoàng đệ, hay là chúng ta tiếp tục chạy về phía Tây thôi!"

    Quế vương ho khan mấy tiếng, thở dài: "Ai, chạy về phía Tây? Chạy nữa thì rời khỏi Hồ Quảng luôn rồi! Đừng quên là phong địa của chúng ta ở Hồ Quảng, chạy tới Quý châu còn mặt mũi nào nữa? Nếu muốn chạy thì mọi người chạy đi, dù sao... đệ không chạy nữa, xương cốt thân già này chịu không nỗi nữa rồi, cũng không sống mấy ngày nữa."

    Phúc vương nói: "Đúng vậy, hoàng huynh nói rất đúng! Chúng ta đã chạy tới biên giới của Hồ Quảng rồi, không thể chạy nữa...."

    Khổng Hi Quý biến hẳn sắc mặt, nhưng trong lòng chẳng có chút chủ ý gì.

    Long Bỉnh khom người ôm quyền thưa: "Ba vị vương gia xin cứ an tâm, từ những ngày đánh giết vừa rồi mà xét, Dương đại nhân chế tạo khai hoa đạn bằng đá và cái... cái vũ khí quái thú có thể phun tiểu xà đó, còn có Dương phu nhân võ công cái thế, giết địch vô số nữa.... vì thế, chúng ta mới bằng năm nghìn người ít ỏi mà chống cự lại ba vạn địch quân cường công. Cho nên, theo ý của ti chức, chỉ cần Kiềm Dương thành có hai vợ chồng Dương thủ bị Dương đại nhân, địch quân không thể làm gì chúng ta được!"

    "Vũ khí quái thú?" Ba vị vương gia đều chưa nghe truyền thuyết thần thoại về chuyện này của lão bá tánh trong thành.

    Long Bỉnh vội miêu tả tình cảnh Dương Thu Trì dùng súng máy giết sạch địch quân, nói: "Ba vị vương gia nếu không tin, có thể lên thành lâu xem. Xác địch quân bên ngoài thành tây đều chất thành từng núi nhỏ, đó là do vũ khí quái thú của Dương đại nhân tạo thành! Đại soái của địch quân cũng chết vào miệng quái thú này, ngay cờ soái cũng bị Dương đại nhân đoạt lấy. Địch quân kinh khủng vô cùng, bấy giờ mới hoảng loạn bỏ chạy, tạm thời chẳng tạo thành thương hại gì với chúng ta đâu."

    Huệ vương Chu Thường Nhuận tay lần chuỗi Phật, khẽ nói: "A di đà phật, thiện tai! Thiện tai! Xem thì không cần đâu, Long tướng quân nói tự nhiên là không giả rồi."

    Quế vương và Phúc vương nghe lời này đều yên tâm hẳn đi, Quế vương hỏi: "Dương đại nhân, lời vừa rồi của Long tướng quân nói có thật hay không?"

    Dương Thu Trì cười mỉm gật đầu, lòng nghĩ như vậy cũng tốt, dùng thần thoại để tăng thêm uy lực của súng máy maxim, có thể tăng cường lòng tin của họ, đó là điều mà hắn cần nhất hiện giờ. Mà thực sự thì súng máy maxim có uy lực tuyệt đối không kém mãnh thú thần thoại bao nhiêu.

    Ba vị vương gia thấy hắn xác nhận càng mừng hơn, Huệ vương lần chuỗi phật nói: "Vậy tính mệnh của ba chúng ta và dân chúng toàn thành đều giao cho Dương đại nhân rồi đó! Hắc hắc hắc."

    Dương Thu Trì lắc đầu: "Ba vị vương gia, chỉ bằng vũ khí quái thú của ti chức và võ công của chuyết kinh vẫn không đủ bảo hộ chu toàn cho sự an bình an của ba vị vương gia được."

    Ba người vừa rồi mới vừa yên tâm lại khẩn trương hẳn lên: "Vì sao như vậy?"

    "Cứ lấy chiến huống sáng sớm nay mà nói, tôi và chuyết kinh chỉ có thể đánh giết địch quân chánh diện, không thể quan tâm đến ba mặt khác. Do đó mới khiến địch quân nhân cơ hội phá ba mặt khác của thành mà vào. Nếu không phải tướng sĩ quân ta dũng mãnh, cộng thêm ba tánh toàn thành phấn khởi đề kháng, e rằng hậu quả không thể tưởng tượng a!"

    Quế vương và ba người còn lại đều biết lời Dương Thu Trì chẳng phải khoa trương. Trước khi trời sáng, địch quân từ ba mặt phá thành đánh vào trong là chuyện họ đã biết, lúc đó họ suýt sợ chết vì khiếp. Lần này nghe nhắc lại, lòng bất an khôn tả.

    Quế vương vội hỏi: "Nên làm sao bây giờ?"

    "Lập tức chiêu binh mãi mã, tổ kiến lại quân đội!" Dương Thu Trì chẳng thèm khách khí gì nữa, lớn giọng nói, "Chí ít phải có một quân đội trên vạn người, cộng thêm hai vợ chồng ôi mới có thể cơ bản đảm bảo ba vị vương gia bình an ở Kiềm Dương huyện. Chỉ có điều, chiêu binh mãi mã cần một lượng lớn lương hướng, túi hai vợ chồng tôi nhỏ nhoi, không thể đảm bảo khoản chi cực lớn này. Hương thân có tiền của Kiềm Dương huyện đã hiến tiền tài hết khả năng rồi, nhưng vẫn còn lâu mới đủ. Do đó, e rằng ba vị vương gia xuất tiền tổ kiến tân quân mới được."

    Đối với ba vị vương gia này, tự họ biết rõ không có quân đội thì không có bình an. Ba người này nếu xét về sự keo kiệt thì kém hơn Sở vương, và họ cũng biết tiền bỏ ra là lập quân đội bảo hộ cho mình, cho nên coi đó là điều phải làm. Ba người đưa mắt nhìn nhau, đều từ từ gật đầu. Quế vương nói: "Dương đại nhân nói phải lắm, như vầy đi, ba chúng ta mỗi người bỏ ra 5 vạn lượng bạc trước để làm quân hướng tổ kiến quân đội, thế nào?"

    Mỗi người 5 vạn, cộng lại mười lăm vạn lạng bạc trắng! Đối với cá nhân, đó là một gia tài kếch sù, nhưng đối với xây dựng quân đội, đó không thể coi là nhiều, nhưng cũng tạm đủ rồi, bỡi vì Dương Thu Trì định xây dựng một quân đội cận hiện đại, binh quy tinh chứ không quý đa.

    Phúc vương và Huệ vương đều gật đầu biểu kỳ đồng ý. Ba vị vương gia gia tài bạc ức, lần này chỵ trốn đều mang theo gia tài và vật tùy thân vận chuyển đến Kiềm Dương huyện, cho nên đối với họ con số 5 vạn đối với ba người không đáng là bao.

    Khổng Hi Quý vừa thấy ba vị vương gia đáp ứng lấy tiền tổ kiến quân đội, tức thời lên tinh thần ngay, gật đầu lia lịa: "Trọng kiến quân đội! Hay lắm, chuyện này cứ giao cho tôi làm là được rồi!" Lão đã là tư lệnh mình trần, đương nhiên rất muốn xây dựng lại quân đội cho mình.

    Dương Thu Trì nhìn lão một cái, cười lạnh trong lòng. Lão tử không giúp ngươi may áo vá quần đâu! Hắn giả vờ trầm tư, cúi đầu một lúc, trầm giọng nói: "Nếu như tổng binh đại nhân có ý tổ kiến quân đội, thì cứ giao cho tổng binh đại nhân làm là hay quá rồi..."

    Khổng Hi Quý ngoác miệng cười đắc ý.

    Không ngờ Dương Thu Trì lại nói: "Lần này Đồng quân vô tư tăng viện, tử thương thảm trọng, ti chức đau lòng xót dạ, tuy nhiên không có tiền lo liệu hậu sự cho tướng sĩ Đồng quân hi sinh, an ủi gia đình, nhưng cũng muốn biểu lộ chút tâm ý, cho nên chuẩn bị mang chuyết kinh ngày mai vận tống các tướng sĩ Đồng quân chiến tử trở về Đồng trại, chôn cất cho họ, thuận tiện nói vài lời an ủi gia đình..."

    Ba vị vương gia cả kinh, vội hỏi: "Dương đại nhân chuẩn bị đi bao lâu?"

    Dương Thu Trì ngẫm nghĩ: "Cái này..., ti chức muốn biểu lộ sự thăm hỏi với từng nhà tướng sĩ Đồng quân chiến tử, ngoài ra, thổ ti đại nhân mang binh đến Thần châu tham dự phòng thủ Thần long quan, đề ngự Thường Đức Trương tặc quân. Đồng trại không người chủ trì. Con gái A Hạnh Ny của thổ ti là hiệp thủ ở đây đã nhiều lần đề nghị ti chức đến Đồng trại giúp chủ trì sự vụ ở đó. Cộng thêm nhiều ngày chinh chiến, vô cùng mệt mỏi, do đó, ti chức muốn hướng đến ba vị vương gia và tổng binh đại nhân xin nghỉ, đến Đồng trại an dưỡng một thời gian."

    Phúc vương trừng to mắt nói: "Cái ... cái này sao có thể được! Hai vợ chồng Dương đại nhân không ở trong thành, lỡ khi đại quân của địch đi rồi quay lại thì làm sao đây?"

    Dương Thu Trì mỉm cười: 'Trong thành có tân quân do tổng binh đại nhân mới kiến tạo, cộng thêm mấy nghìn địch quân mới đầu hàng, binh lực đại tăng, huống chi tổng binh đại nhân chỉ huy có phương pháp, dưới trướng nhiều tướng sĩ anh dũng thiện chiến, xem ra không hề ngại gì."

    Phúc vương lòng thẳng miệng nhanh, trừng mắt nói ngay: "Cái gì mà chỉ huy có pháp? Mười vạn đại quân chẳng phải đều bị hắn chỉ huy lớp chết lớp bỏ chạy lớp hàng, hiện giờ chỉ còn mấy trăm người sao! Còn để hắn chỉ huy gì nữa? Còn hiềm chưa chết gấp hay sao?"

    Sắc mặt của tổng binh Khổng Hi Quý tức thời hết hồng lại trắng, nhưng người giáo huấn lão là vương gia, lão chỉ còn biết há hốc mồm không dám cãi gì.

    Huệ vương hiển nhiên đối với chuyện này cũng căm phẫn bất bình. Nhưng mà, ông ta là người tin vào phật, nên chữ sân này không thể vọng động, chỉ xụ mặt cúi đầu niệm a di đà.
     
  7. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 127: Được Gió Kéo Buồm
    Quế vương già đời sành sõi, đã hiểu lời vừa rồi của Dương Thu Trì là lấy lui làm tiến, cho nên lập tức vuốt chòm râu bạc cười, nói: "Theo như ta thấy, chuyện tổ kiến tân quân này cứ giao cho Dương đại nhân làm! Lần này đánh lui địch quân toàn là dựa vào công của hai vợ chồng Dương đại nhân, lúc này đích xác không thể rời khỏi đây. Như vầy đi, chuyện phủ úy gia đình Đồng quân tử thương sẽ do ba chúng ta xuất tiền, ừ..., chiến tử và thụ thương tàn phế không thể làm lụng thì mỗi nhà 50 lượng, còn những kẻ bị thương khác thì cho phân nửa. Chúng ta lấy tiền đưa Dương đại nhân tự thân phủ tuất, thây cốt của người chết cho người nhà họ mang về. Còn chuyện phủ úy người nhà ở Đồng trại, chủ trì truyện này ấy à, do chiến sự khẩn cấp, Dương đại nhân không thể đến được, Đồng trại còn có tộc trưởng các tộc, có thể thay, không có sự tình gì đâu!" Xong ông ta quay sang Phúc vương và Huệ vương:

    "Ý của hai vị thế nào?"

    "Được! Cứ làm như vậy!" Phúc vương và Huệ vương cùng vỗ đùi.

    Phúc vương vừa rồi cơn tức bốc lên đầu buộc miệng mắng mấy câu, thấy sắc mặt tổng binh khó coi, cảm thấy hơi hối, dù gì tổng binh cũng là quan chỉ huy quân sự tối cao ở Hồ Quảng, bỏ ông ta ra để một thủ bị nho nhỏ tổ kiến và thống lĩnh tân quân đích xác là có điều nói không qua. Hơn nữa, tổng binh này dọc đường bảo hộ ba người họ, không có công lao thì cũng có khổ lao, không có khổ lao thì cũng có bì lao (mệt mỏi), đối với tổng binh cũng biết gốc biết gác, không như Dương thủ bị tuy có công lui địch, nhưng không thể quá dễ tin buông tay để hắn nắm binh quyền đại quân. Do đó, ông ta chuyển đầu, nghĩ ra một chủ ý, nói:

    "Như vầy đi, Dương đại nhân xây dựng chính là đoàn luyện của Kiềm Dương huyện. Tổng binh đại nhân cũng đồng thời khoách chiêu binh mã, hai bên không thể chần chờ. Nhiều lắm là chúng ta bỏ thêm bạc ra để tổng binh xây dựng lại Minh quân, ý hai vị hoàng huynh thế nào?"

    Huệ vương chuyển đầu nhìn Quế vương, thấy ông ta cười không nói, cũng không rỏ thái độ, tựa hồ có lời muốn nói nhưng chưa tiện nói ra.

    Tổng binh thì khoái chí vô cùng, liếc xéo Dương Thu Trì một cái, nói: 'Địa phương đoàn luyện quy mô không được lớn, nếu không sẽ bị hiềm là tự lập quân đội a!"

    Dương Thu Trì vốn không định chiêu nạp mấy vạn người. Vũ khí cận đại hóa trong tay hắn không thể tùy tiến phát cấp cho tất cả mọi người, một khi rơi vào tay địch thì hắn coi như tiêu đời, liềnhỏi: "Thỉnh tổng binh đại nhân chỉ kỳ, ti chức tổ kiến đoàn luyện nên hạn chế đến mức bao nhiêu người?"

    Khổng Hi Quý ngẫm nghĩ: "Cái này... năm... tám...., a, cứ lấy 1000 người làm giới hạn đi! Là địa phương đoàn luyện của một huyện thành nhỏ, một nghìn người đã là không ít rồi, đủ để đề ngự phỉ đạo xâm nhiễu rồi."

    "Vậy à, được thôi, đoàn luyện 1000 người đương nhiên là đủ rồi. Nhưng mà, lời phải nói rõ trước, đoàn luyện chỉ ứng đối với đạo tặc hay giặc cướp địa phương, không thể coi là quân đội. Do đó, nếu như đại quân của Trương Hiến Trung đi rồi quay lại, xem ra không cần đoàn luyện của tôi ra trận rồi?"

    Đoàn luyện không ra trận, vợ chồng Dương Thu Trì đương nhiên không ra, như vậy thì chiến trận đã thua đến 9.9 phần mười rồi. Mặt Khổng Hi Quý rất khó coi: "Cái này, đương nhiên không phải...."

    Quế vương phẫy tay, ra ý bảo Khổng Hi Quý không cần phải nói gì nữa. Ông ta vuốt râu bảo: "Theo ý của bổn vương, Kiềm Dương huyện chỉ có bấy nhiêu nhân khẩu, không cần phải chia ra chiêu binh mãi mã làm gì, phân tán lực lượng không hay. Như vầy đi, chúng ta đem lực lượng chủ yếu tập trung vào một chỗ, chuyện khoách quân chiêu binh toàn bộ do Dương đại nhân phụ trách. Quân hướng không đủ cứ mở miệng hỏi, ba người chúng ta tích súc nhiều năm, nuôi mấy vạn tướng sĩ vẫn được, Dương đại nhân cứ mặc tình chiêu binh mã. Còn về tổng binh đại nhân, chờ sau này Dương đại nhân dẫn binh thu phục Trường Sa, Vũ Xương, đến lúc đó tổng binh đại nhân lại trù kiến quân đội thêm cũng không muộn."

    Huệ vương một mực nghe theo vị hoàng đệ của mình, nghe Quế vương nói vậy liền gật đầu: "Ý bổn vương cũng vậy. Dương đại nhân trận này đại bại Trương tặc quân, là trận chiến thống khoái hiếm có từ nhiều năm nay. Huống chi lại lấy ít thắng nhiều, đủ thấy Dương đại nhân văn thao võ lược, do ông ấy xây dựng và thống lĩnh tân quân xem ra là lòng mong mỏi của mọi người."

    Phúc vương không dám đấu võ mồm với Quế vương và Huệ vương, và kỳ thật ông ta cũng hi vọng cánh quân này do Dương Thu Trì thống lĩnh, vừa rồi chẳng qua là vuốt mặt nễ mũi tổng binh một chút thôi. Hiện giờ nếu như Quế vương và Huệ vương đã phản đối đề nghị của ông ta, ông ta vừa khéo có bậc đá xuống lưng lừa, cười cười ra vẻ áy náy với Khổng Hi Quý: "Đúng a, trọng nhiệm này cứ để một mình Dương đại nhân gánh đi. Tổng binh đại nhân cũng tranh thủ khuây khỏa, nghỉ ngơi cho khỏe, chờ sau này trọng kiến hùng sư."

    Khổng Hi Quý vô cùng thất vọng, nhưng ý của ba vị vương gia nhất trí, y còn làm sao được, chỉ biết im lìm gật đầu.

    Dương Thu Trì lộ nụ cười mỉm, chấp tay xá ba vị vương gia, nói một phen hào ngôn tráng ngữ khẳng khái bảo vệ tổ quốc, sau đó đứng lên định cáo từ.

    Quế vương lại khoát tay bảo hắn ngồi xuống, hiền từ nói: 'Dương đại nhân, mấy ngày nay ngươi bận lo chiến sự, nhất mực ít có thời gian đến chiếu cố Phượng nhi. Không gặp ngươi, Phượng nhi chẳng ăn uống gì. Trước mắt địch nhân tạm lui, ngươi hãy lĩnh Phượng nhi về đi, dù gì nó cũng là người của ngươi mà."

    Người của ta? Dương Thu Trì ngẩn người.

    Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức không có Dương Thu Trì bên cạnh là không ăn, có đổ cũng ói ra. Bọn họ từ Trấn Viễn phủ về Kiềm Dương huyện thì gạp phải địch quân công thành, Dương Thu Trì bèn đưa tiểu quận chúa đến chỗ ba vị vương gia. Hắn thật ra không muốn quẳng của nợ này đi, mà là những ngày này bận rộn chế tạo súng đạn, khi nghe người hầu nói nàng không ăn, chỉ có thể tranh thủ rảnh rỗi đến xem, phát vào cái mông tròn của nàng vài cái, bắt nàng ngoan ngoãn ăn. Hiện giờ xem ra chỉ có hắn mới chăm được cô tiểu quận chúa này, nếu không cô nàng giở trò đòi chết đói thì nguy.

    Nói đến chuyện này, không chờ Dương Thu Trì lên tiếng, Phúc vương đã không hài lòng trầm giọng nói: "Dương đại nhân, bổn vương nghe Phượng nhi nói, ngươi mang nó tới Trấn viễn phủ gặp mợ nó, tối đến hai người còn... còn ngủ chung phòng, có chuyện này không?"

    Dương Thu Trì cười cười: "Đúng, nhưng đó đều là do mợ nàng ta cưỡng bách, nếu không không giao tài bảo của tiểu quận chúa do bà ta giữ ra. Tiểu quận chúa đáp ứng đem một phần tài bảo cho tôi tổ kiến quân đội, sau này bảo hộ ba vị vương gia cho tốt. Tôi cũng vì đại cuộc mà nghĩ, mới tòng quyền. Nhưng mà, tôi và tiểu quận chúa đều trong trong trắng trắng, không làm chuyện gì không hay, nếu không tin, các vị có thể tìm ổn bà nghiệm thân cho nàng ấy..."

    Phúc vương cứ thẳng thắn, trầm mặt: 'Dương đại nhân, ngươi đã có vợ, sao còn... hừ! Tuy nói tên Trương tặc bộ tướng đó để Phượng nhi làm thiếp cho ngươi, nhưng văn khế của phản tặc...."

    Quế vương ở cạnh chợt ho, tiếng ho rất lớn.

    Phúc vương nhíu mày định chờ ông ta ho xong rồi nói tiếp, không ngờ Quế vương ho thật lâu mà chưa dừng.

    Phúc vương tuy thẳng thắng nóng tính, nhưng không ngốc, nghe Quế vương ho trận này có vẻ giả vờ, biết là có thâm ý, liền mím miệng không nói nữa.

    Quế vương nỗ lực thở vài hơi, áy náy cười nói: "Bộ xương già này của ta không biết có thể chịu được bao lâu, ai! Chỉ là lo cho nha đầu Phượng nhi đáng thương a, nếu mà nó không có nơi nương tựa tốt, bổng vương... chết không nhắm .... mắt a..." Nói đến đây, lời của ông to nghẹn ngào, lại phát ho trở lại.

    Huệ vương ở bên cạnh cười nói: "Hoàng đệ đừng lo nghĩ nhiều, hiện giờ Phượng nhi đã có chỗ dựa là Dương đại nhân, chúng ta có thể yên tâm được rồi."

    Huệ vương và Quế vương là anh em ruột, vừa rồi Quế vương vờ ho và nói vậy, Huệ vương đã biết ý tứ của đệ đệ mình. Ông ta là vương của Kinh châu, Trương Hiến Trung đem quân đến đánh, ông ta chạy về Trường Sa, đầu Phúc vương. Trương Hiến Trung đánh Trường Sa, ông ta và Phúc vương lại chạy đến Hành châu dựa vào Quế vương. Ba người khi ở Hành châu, Phúc vương đã nói chuyện của Chu Phượng Đức, lúc đó ba người đều cảm thấy phẫn uất.

    Sở vương đời cuối cùng là Chu Hoa Khuê vốn là cháu đời thứ chín của Minh thái tổ Chu Nguyên Chương, quan hệ với đương kim hoàng thượng còn xa hơn cả Phúc vương hiện giờ, càng không thể sánh bằng Quế vương và Huệ vương. Do đó, ba người kỳ thật chỉ quan tâm đến Chu Phượng Đức như là các thành viên hoàng thất lợi dụng nhau. Đặc biệt là Quế vương và Huệ vương do ít lai vãng với Sở vương, nên không thể coi là thân tình gì. cho nên, Huệ vương thấy Quế vương nói tới chuyện Chu Phượng Đức mà tự nhiên nhỏ lệ, lòng liền sáng bừng, biết rằng tất có nguyên do.

    Nguyên nhân này rất dễ nhìn ra. Ba người họ ở Hành châu không lâu, Trương Hiến Trung lại tiến quân Hành châu. Ba người họ chỉ đành tiếp tục đào vong, chạy vòng vòng đến huyện thành nhỏ nhoi phía Tây này. Ba người đều được phong phiên ở Hồ Quảng, nếu chạy ra ngoài tỉnh thì chẳng còn mặt mũi nào. Do đó, Quế vương cố chấp không chịu chạy vào Quý châu, thà chết ở lại Kiềm Dương. Huệ vương và Phúc vương không còn cách nào, chỉ đành nghe theo. Họ vốn cho rằng lần này chết chắc, không ngờ nửa đường có Dương Thu Trì xông ra đại triển thần uy, dùng tạc đạn và súng máy đánh tan ba vạn địch quân, giữ được tính mệnh của họ. Đây là trận đại thắng đầu tiên trên con đường đào mệnh của ba vị vương gia, lòng họ hoan hỉ không gì tả được. Do đó, Huệ vương thấy Quế vương như thế, liền biết Quế vương muốn dùng tiểu quận chúa Chu Phượng Đức mua chuộc lòng của Dương Thu Trì, kéo hắn lên chung xuồng. Do đó, không ta thấy gió cũng kéo buồm, nói giúp thêm vài câu.

    Huệ vương đoán không sai. Quế vương chính là có ý đó. Đầu óc ông ta xoay chuyển rất nhanh, có câu người không vì mình trời tru đất diệt, vì sao lại không vì lợi ích của mình mà nghĩ trước chứ? Ông ta tuy già cả, nhưng đã nhìn tình huống trước mắt rất rõ ràng: Dương Thu Trì là dị nhân, có vũ khí quái thú có thể cắn người, dường như bằng sức lực một mình mà đẩy lui địch quân. Hiện giờ chỉ có Dương Thu Trì mới bảo vệ được tính mệnh họ, là bồ tát sống cứu mạnh, không những không được đắc tội, mà còn phải nghĩ cách làm cho hắn cao hứng, bất kể ân huệ hay là gì sao cho hắn cảm kích, chịu để cho họ sử dụng mới là thượng sách.

    Còn về tiểu quận chúa Chu phượng Đức đối với Quế vương mà nói chẳng qua là thành viên hoàng thất có cùng chung ông tổ mà thôi, quan hệ huyết thống đã xa lắc chín đời rồi, căn bản chẳng thể bàn đến thân tình gì. Cho dù nàng ta có lấy một người địa vị thấp kém, đối với họ chẳng tổn hại gì. Vừa khéo trước đó đã có bộ trướng Trầm Lỗi của Trương Hiến Trung tặng thiếp, có thể lấy đó làm cớ bắt Dương Thu Trì lấy tiểu quận chúa, kéo hắn vào hoàng thất. Hắn tự nhiên sẽ vì hoàng thất mà nghĩ, và sẽ nghe theo lệnh ông ta!

    Trước mắt giang sơn của Đại Minh gió mưa lăng loạn, nội ưu ngoại hoạn, sụp đổ nay mai, nếu như có thể lung lạc thiếu niên dị nhân này, nói không chừng sau này hắn còn soái quân bình định Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung loạn tặc, và đánh lui nhà Hậu Kim hổ thị đam đam, giữ vững giang sơn Đại Minh! Do đó, nhất định phải nghĩ biện pháp lung lạc thanh niên này!
     
  8. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 128: Ép Buộc Nạp Thiếp
    Quế vương gạt nước mắt già hỗn trọc, gật đầu nói: "Hoàng huynh nói không sai, cha mẹ của Phượng nhi, phu quân, huynh muội cùng mọi người khác đều chết thảm trong tay Trương tặc quân, chỉ còn lại mình nó cô khổ, thật may là Dương đại nhận cứu nó ra, lại thu vào trong nội thất, một lòng chiếu liệu, đây cũng là phúc phần của Phượng nhi a...! Đáng thương cho Phượng nhi bị sợ quá ngu ngơ luôn rồi, rất may hiện giờ cũng có gia đình, tuy là thiếp, nhưng Dương đại nhân đối đãi nó tốt như vậy, không khác gì vợ nguyên phối, nên chúng ta cũng yên tâm rồi..."

    Huệ vương ở bên cạnh không ngừng lần chuỗi phật, phụ họa theo: "Đúng a, ai..., những ngày này khổ cho Phượng nhi hài tử rồi. Lúc ta ở Trường Sa cùng hai vị hoàng huynh nói đến chuyện này đều cảm thán. Phượng nhi mạng khổ, nhưng cũng số may, gặp được người tốt như Dương đại nhân đây, không những thoát được miệng hổ, còn là người yêu thương nó, nửa đời sau có chỗ dựa dẫm rồi."

    Phúc vương nghe hai huynh đệ một xướng một họa, cứ ép gán tiểu quận chúa cho Dương Thu Trì, hoàn toàn khác với thái độ dĩ vãng, đầu óc hơi chuyển, lập tức minh bạch nguyên do bên trong.

    Phúc vương và Sở vương quan hệ tương đối gần. Sau khi Sở vương chết, Phúc vương liền tự quyết đứng ra làm chủ cho tiểu quận chúa, tìm kiếm một nhà môn đăng hộ đối để gả nàng, để nàng có chỗ nương nhờ. Nếu không phải là vì chuyện ở Kiềm Dương, người được chọn dù sao đi nữa cũng không đến lượt Dương Thu Trì. Sau khi được Quế vương và Huệ vương nhắc nhở, ông ta đã nghĩ minh bạch, rằng Truơng tặc quân thế như phá trúc, đã giết Tương vương, Kinh vương và Sở vương ba vị vương gia. Bọn họ nếu không dưới chân bôi mỡ chạy đủ nhanh, e rằng đã tiêu đời. Hiện giờ tính mệnh người thân của họ hoàn toàn phụ thuộc vào vợ chồng Dương Thu Trì, nếu như Dương Thu Trì mặc kệ, hoặc dạ trước mặt đấm vặt sau lưng, thì khi đối đầu với Trương tặc quân như lang như hổ, đầu của bọn họ chẳng thể yên ổn rồi.

    Do đó, Phúc vương cũng ra vẻ thần tình thảm não, thở dài một hơi: "Đúng a, bổn vương nghe nói Dương đại nhân cứu muội muội của một bộ tướng của Trương tặc quân tên là Trầm Lỗi, do đó, Phượng nhi khi rơi vào tay người này, đã được hắn chuyển tặng Dương đại nhân làm thiếp. Vốn ra lời của tặc khấu là không có giá trị, nhưng bình tâm mà luận, từ cổ đến giờ kẻ thắng làm vua. Trương tặc quân phá Vũ Xương, bắt cả nhà hoàng huynh Hoa Khuê, toàn bộ nữ quyến làm nô làm xướng, hoặc bán hoặc cho, lòng chúng ta đau như cắt. Nhưng nghĩ kỹ lại, đó là sự tình thường thấy từ cổ tới giờ. Chúng ta bắt người nhà và nữ quyến của địch nhân, tặng người khác làm thiếp là chuyện cũng thường. Do đó, bất quản trong lòng chúng ta không nhận, chuyện này rõ ràng là xác thật như định đóng cột rồi..."

    "Ơ à, chờ đã! Vương gia!" Dương Thu Trì càng lúc càng cảm thấy không ổn, mới đầu Quế vương và Huệ vương một đàn một hát, Phúc vương hiển nhiên là không vừa lòng chuyện hắn ôm tiểu quận chúa ngủ, nhưng hiện giờ nghe lời lão dường như là cùng về phe với hai lão già dịch kia. Theo lời họ, dường như đã coi hắn là trượng phụ của tiểu quận chúa rồi. Cái này không động, hắn cười ruồi ngắt lời họ, "Ti chức ngu muội, có chút... cái này, hắc hắc, nghe không hiểu ý tứ của ba vị vương gia...."

    Quế vương kỳ quái hỏi: "Dương đại nhân không hiểu gì?"

    "Các vị nói...., nói tiểu quận chúa là thiếp thất của tôi, nhưng..., nhưng tôi khi ở Trường sa đã nói rõ rồi, lúc đó chỉ là kế quyền nghi, vì cứu tiểu quận chúa. Tôi đã thành thân rồi, hơn nữa còn đáp ứng vợ tôi không nạp thiếp, do đó...., hắc hắc, hơn nữa, nàng ta đường đường là quận chúa, sao làm tiểu thiếp của tôi được? Phúc vương nói không sai chút nào, hắc hắc hắc...., tôi chiếu cố nàng ta thì được, nhưng chuyện này thì.... hi hì... không thể nào!"

    Quế vương dường như đã sớm liệu đến chiêu này, lau nước mắt nói: 'Dương đại nhân, nam tử hán đại trượng phu đỉnh thiên lập địa, nói lời phải giữ lời, đúng không nào?"

    "Cái đó đương nhiên! Nam nhân nói mà không giữ lời, gọi là nam nhân gì chứ! Nhưng mà..."

    "Bổn vương hỏi ngươi," Quế vương ngắt ngay lời hắn, "Tên bộ tướng của Trương Hiến Trung có từng bức ngươi nạp Phượng nhi làm thiếp chưa?"

    "Cái này thì không, nhưng mà..."

    "Ngươi và tiểu quận chúa ngủ chung giường chung gối, còn sờ vào ... nó," Quế vương chỉ chỉ vào ngực mình, mặt lộ vẻ đắc ý, "Đây có phải là sự thật?"

    "À...., ừ, thì phải, nhưng mà..." Dương Thu Trì há hốc mồm chẳng biết làm sao giải thích chuyện này. Hắn không ngừng thầm kêu khổ, hối hận lúc đó thái quá khinh suất, cho rằng tiểu quận chúa về sẽ không kể lại, dọc đường cũng đã dặn đi dặn lại nàng, thật không ngờ tiểu quận chúa khờ khờ, hỏi cái gì nói thế nấy, liên long trải thủ trảo.... ấy... cũng nói ra.

    Quế vương cười: "Ta hỏi người, ở Trấn Viễn phủ, ngươi xưng hô với cữu mụ của tiểu quận chúa là gì?"

    '... xưng là... cữu mụ." Dương Thu Trì cười khổ, hắn phát hiện bản thân đã trở thành con cá trong lưới của lão hồ li Quế vương này rồi, có giãy giụa cách nào cũng không thoát.

    Quế vương càng cười thích chí hơn: "Như vậy là đúng rồi, tiểu quận chúa trước bị tặng cho ngươi làm thiếp. Ngươi chung chăn chung gối với tiểu quận chúa. Ngươi cũng nhận cữu mẫu duy nhất của cháu nó làm thân nhân. có văn khế làm bằng chứng, có quan hệ phu thê thật sự, tiểu quận chúa không phải thiếp thất của Dương đại nhân chứ là cái gì?"

    "Tôi ngũ chung giường với nàng ta, nhưng mà không... không có làm cái đó a!"

    Quế vương lắc đầu hỏi: 'Dương đại nhân, ngài nhận thấy rằng lời này nói ra có ai tin không?"

    Dương Thu Trì tức thời á khẩu. Đổi thành bản thân, hắn cũng không dám tin cô nam quả nữ ngủ chung giường suốt đêm mà không có chuyện gì phát sinh. Huống chi hắn vì lừa bà mợ già kia mà mượn thế còn day còn bóp lung tung lên ngực của người ta nữa.

    Quế vương thở dài: "Dương đại nhân, chúng ta nghe nói ngài đã đáp ứng với vợ tuyệt không nạp thiếp. Nhưng bổn vương cần nhắc hai chuyện, đại nhân có thể vì thế mà châm chước: một là Dương đại nhân nạp thiếp trước, cưới vợ sau, cho nên ước định của ngài không ảnh hưởng sự thật đã hình thành trước đó, và cũng không phản lại ước định vợi vợ. Thứ hai, Dương đại nhân vì vợ mà nghĩ, thì cũng nên đồng thời vì tiểu quận chúa mà nghĩ. Ngài và tiểu quận chúa chung chăn chung gối, mấy chục hộ vệ của ngài đều biết, toàn bộ trên dưới trong phủ cữu mẫu của tiểu quận chúa đều biết, hiện giờ ba người trong hoàng tộc ta đều biết. Tiểu quận chúa tân hôn rồi chồng chết, cải giá cấp ngài, đã viên phòng với ngài tại nhà của cữu mụ tại Trấn Viễn phủ, hiện giờ ngài tung chân đó cháu nó ra khỏi cửa, ngài biểu nó sau này làm sao đối mặt với người? Làm sao mà sống đây?"

    Huệ vương ở bên cạnh cũng thở dài một hơi, lời nặng tâm nề nói: "Đúng vậy, hoàng đệ nói lời này không sai chút nào. Dương đại nhân, ngài hãy suy nghĩ kỹ lại đi, Phượng nhi hiện giờ ngốc nghếch không biết gì, nếu mà biết nhất định sẽ thương tâm...."

    Dương Thu Trì lập tức túm ngay câu này: 'Đúng vậy đó, tiểu quận chúa đã khờ khờ rồi, sự tình lớn như vậy nàng ấy không tự biết đâu, sau này nàng ấy bệnh khỏi rồi, biết các vị đem gả cho bá tánh bình dân như tôi, sẽ thương tâm lám đó!"

    Phúc vương cũng gia nhập trận đấu võ mồm, trầm mặt nói: "Không đúng! Đừng nói chi Dương đại nhân hiện giờ đã là thủ bị ngũ phẩm, là quan ở trong triều rồi. Cho dù là bá tánh bình dân, lệnh của mẹ cha, lời mai mối từ xưa đến nay chắc như định đóng cột. Hôn sự của tiểu quận chúa vốn do Sở vương làm chủ, hiện giờ Sở vương cả nhà chết hết, chỉ còn lại cữu mẫu của tiểu quận chúa ở Trấn Viễn phủ, tự nhiên do bà ta làm chủ. Nếu như bà ta đã công nhận chuyện tặng thiếp, coi như đã làm chủ chuyện này, đem tiểu quận chúa gả cho ngài làm thiếp rồi. Nạp thiếp không như cưới vợ, không cần đủ sáu lễ mối mai, người lớn trong nhà nói một tiếng là xong. Do đó, vô luận là ngài chối cải thế nào, tiểu quận chúa đã là thiếp của ngài, chẳng còn nghi ngờ gì nữa!"

    Dương Thu Trì ngoảnh cổ há miệng, định nói nếu như ả đã là thiếp của ta, ta hiện giờ không thèm nữa, viết thư bỏ là xong! Nhưng dù sao thì hắn cũng không thể nói thành lời, vì nghĩ không thể thái quá tuyệt tình, ngủ thì đã ngủ với con gái của người ta rồi, lỡ chạm tay vào ngực con gái người ta rồi, bây giờ ngoảnh mông phủi đít không nhận, rõ ràng là nói gì cũng không suông.

    Quế vương mỉm cười nói: "Tiểu quận chúa gả cho Dương đại nhân tuy cũng thiệt thòi, nhưng Dương đại nhân thiếu niên ánh tuấn, đảm lược hơn người, lần này soái lãnh bốn nghìn dũng sĩ đại bại ba vạn địch quân, làm tăng sĩ khí quân ta. Chuyện này sẽ nhanh chóng truyền biến khắp triều, khắp đại giang nam bắc e rằng sẽ lấy đó làm điển lệ mà hành động. Dương đại nhân từ đây uy danh sẽ bay xa, tuổi trẻ mà lập kỳ công như vậy, sau này tiền đồ không thể hạn lượng a!"

    Quế vương chỉ khẽ vuốt mông ngựa mấy câu, Dương Thu Trì không thể không cười, khiêm tốn đáp lại vài lời.

    Nói đến đây, Quế vương chuyển đầu nhìn Huệ vương và Phúc vương, thở dài, giọng trầm trọng: "Dương đại nhân, Sở vương tao ngộ kiếp nạn chắc ngài biết, thế tử cùng mọi người theo Sở vương tuẫn quốc, do đó mạch của Sở vương từ đây e rằng đoạn tuyệt rồi. Ai! Từ Minh thái tổ nhà ta khai quốc tới giờ, phong vương gần ba chục, chưa bao giờ có chuyện hương hỏa đoạn tuyệt, không ngờ đến đời Hoa Khuê, lại..."

    Ba lão đầu này ba phần giả vờ, bảy phần thương cảm, không ngờ sụt sùi ệ ệ khóc nấc cả lên.

    Dương Thu Trì thấy ba người họ làm vậy không biết là thật hay là giả, đối với dụng tâm của họ cũng đoán được mấy phần. Nhưng dù sao đi nữa, ba thân vương này coi trọng hắn như vậy, khiến hắn cũng nhen lên mấy phần đắc ý, và có đôi chút cảm đông.

    Du kích tướng quân Long Bỉnh nhất mực im lặng ở bên nghe họ nói, khi thấy ba vị vương gia cứ ép dúi tiểu quận chúa cho Dương Thu Trì bắt lấy làm thiếp, y cũng đã trực tiếp kinh qua mấy trận chiến tàn khốc vừa rồi, tận mắt nhìn thấy tình cảnh tạc đạn và súng máy của Dương Thu Trì giết mấy nghìn quân địch máu huyết đầy đồng... Y sống tới chừng này, đã nhiều năm chinh chiến sa trường, từ tiểu binh thăng đến du kích tướng quân trải qua không biết bao nhiêu chiến sự lớn nhỏ, chưa từng thấy vũ khí uy lực như vậy. Y cũng dự cảm Dương Thu Trì nắm được hai vũ khí lợi hại này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình thế chiến tranh, cho nên lý giải vì sao ba vị vương gia muốn tìm cách lung lạc Dương Thu Trì.

    Y tuy không phải là kẻ chuyện nịnh hót, nhưng cũng biết mượn gió láy thuỳên, vội nói: "Ba vị vương gia đừng thương tâm, Trương tặc và Sấm tặc chẳng qua là quân chúng ô hợp. Đại Minh của ta có Dương đại nhân cái thế kỳ tài, nhất định sẽ bình định tặc khấu, trả lại thời thái bình thịnh thế cho chúng sinh!"

    "Long tướng quân nói phải lắm!" Quế vương gạt lệ, nói với Dương Thu Trì, "Dương đại nhân, bổn vương có đề nghị, không biết đại nhân có chấp nhận hay không?"
     
  9. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 129: Phá Vỡ Quy Củ
    Quế vương đứng dậy, chậm bước đến trước mặt Dương Thu Trì. Dương Thu Trì vội đứng dậy, khom người.

    Quế vương giơ hai tay đỡ hắn, trầm giọng nói: "Tuy theo quy củ của tổ tông thì tước vị chỉ truyện đích không truyền thường, không có tiền lệ truyền cho nghi tân trước đây. Nhưng điều bất hạnh là Sở vương và các con cháu đều tuẫn quốc, chúng ta không thể nhìn mạch của Sở vương đến đây đoạn tuyệt. Dòng dõi của Sở vương trước mắt chỉ còn mình tiểu quận chúa. Tiểu quận chúa cải giá lấy ngài. Ngài chính là nghi tân của Sở vương. Lần này ngài lại lập đại công, do đó, bổn vương có ý tiến cử Dương đại nhân ngài lên hoàng thượng phá lệ cho ngài kế thừa tước vị Sở vương, là Sở vương đời thứ mười, không biết Dương đại nhân có ý thế nào?"

    Ta làm Sở vương? Cái này không khỏi quá hoang đường hay sao? Dương Thu Trì há miệng ú ớ, không biết nói thế nào cho phải.

    Huệ vương và Phúc vương đều ngầm khen Quế vương cao minh.

    Các phiên vương của Minh triều vào sơ kỳ quyền thế rất lớn, có phủ binh riêng, có thể tham dự triều chánh, có thể trực tiếp ủy phái quan viên. Phiên vương ở biên cương thậm chí còn có binh quyền rất lớn. Minh thành tổ Chu Lệ năm xưa chính là Yến vương trấn thủ biên cương phía bắc, cuối cùng đã phát động chiến dịch Tĩnh nạn, mang binh đánh về kinh thành lật đổ Kiến Văn đế. Ông ta từ kinh nghiệm của bản thân cảm thụ phiên vương có uy hiếp rất lớn đối với hoàng quyền, do đó trước sau nỗ lực giảm bớt thực quyền của phiên vương. Từ đó trở đi các đời hoàng đế kế thừa truyền thông này, tuy lục tục phong vương, nhưng đều nghiêmcách hạn chế thật quyền, đối với những phiên vương cứng đầu nguy hại hoàng quyền đều nghiêm cách xử phạt, tước đoạt tước vị, giam vào thiên lao trị tội. Đối với những phiên vương trầm mê vào tửu sắc, làm chuyện không không, thì phần lớn đều làm ngơ hay thậm chí tán thượng, tặng mỹ tửu và giai nhân để khao thưởng. Do đó, đến hậu kỳ nhà Minh, phiên vương ngoài trừ vinh dự là hoàng thất và tài phú cực lớn ra, cơ bản không có thật quyền gì.

    Hiện giờ Quế vương tiến cử Dương Thu Trì lên hoàng thượng với danh nghĩa là con rễ kế thừa tước vị của Sở vương, tuy trái với cương thường, nhưng trong tình huống đặc thù hiện giờ, chỉ cần hoàng thượng biết được tài năng của hắn, thì không phải là không biết tùy cơ ứng biến. Dù gì thì phiên vương cũng chỉ là xưng hiệu vinh dự mà thôi. Một khi hoàng thượng phê chuẩn, coi như đã triệt để lôi kéo "dị nhân" Dương Thu Trì vào hoàng thất, mọi người là ngựa chung chuồng, có thể khiến hắn buộc chặt vào cái xe trâu già cỗi cũ nát Minh triều này, bỏ hết sức chửng cứu giang sơn của Đại minh.

    Nghĩ thông điều này, Huệ vương và Phúc vương đều đứng dậy bước tới nói: "Chủ ý này quá hay! Chúng ta cùng tiến cử Dương đại nhân, lấy thân phận nghi tân của Sở vương kế thừa tước vị Sở vương!"

    Tổng binh Khổng Hi Quý cũng hiểu ra ý tứ của ba vị vương gia. Lão biết, nếu như ba vị vương gia liên danh tiến cử, cộng thêm trận chiến ở Kiềm Dương, Sùng Trinh đế căn cứ cực diện trước mắt, sẽ hết tám chín phần phê chuẩn đề nghị này, hạ chỉ để Dương Thu Trì kế thừa vương tước. Lão lĩnh binh đánh trận không được, nhưng luồn cúi đầu cơ thì không phải tay vừa, lập tức ngửi ngay mùi thăng quan tiến chức như diều gặp gió trên người Dương Thu Trì, tuy trong bụng vẫn đầy toan tính vật chất, nhưng mặt cười rất tươi, ọc ạch chạy tới khom người nói:

    "Thật đúng là ý lớn gặp nhau, ti chức cùng muốn chen chân, vẫy đuôi chó theo hầu, phụ họa ba vị vương gia cùng tiến cử Dương đại nhân!"

    Dương Thu Trì đối với tiểu quận chúa vốn không hảo cảm gì, sau đó chẳng qua là vì thương hại cho tao ngộ của nàng, nhờ cơ duyên xảo hợp thuận tiện giải cứu nàng mà thôi. Thật không ngờ hắn đã tự dẫn lửa thiêu thân, gây ra phiền phức lớn thế này. Hắn nghĩ tới ước định kiếp trước với Liễu Nhược Băng, nhủ thầm: cái cửa này không thể đi, giả vờ cũng không được, nếu không sẽ lỡ mất một phen tình ý của Liễu Nhược Băng.

    Vì thế, hắn chỉ đành cứng đầu khom người xá dài, cười khổ nói: 'Đa tạ ba vị vương gia và tổng binh đại nhân hậu ái. Ti chức...., ti chức cảm kích vô cùng! Chỉ là...., thật tế là ti chức đã đáp ứng chuyết kinh không thể nạp thiếp. Tuy nói là có hôn ước với tiểu quận chúa trước, nhưng cái này... hắc hắc, ba vị vương gia mong hiểu cho, ti chức thật tế... không thể tuân mệnh..." Nói xong xá lia xá lịa.

    Bốn người đưa mắt nhìn nhau, nụ cười trên mặt Quế vương từ từ biến mất, trầm giọng hỏi: "Nếu vậy có nghĩa là Dương đại nhân chấp ý không chịu lấy Phượng nhi làm thiếp sao?"

    Dương Thu Trì khom người thưa: "Thỉnh vương gia hiểu cho, thật tại ti chức không dám phản lại lời hứa với chuyết kinh!"

    "Vậy...., bổn vương muốn nghe Dương đại nhân nói một lời, Dương đại nhân chuẩn bị đối xử sao với Phượng nhi của ta đây?"

    "...." Dương Thu Trì tắt họng, chỉ biết vái dài.

    Phúc vương tức đến xanh cả mặt, lớn tiếng quát: 'Cái này còn phải hỏi? Rõ ràng là muốn quất ngựa truy phong mà! Hừ!"

    Phúc vương phất tay áo, thở khì khì đi qua đi lại, sau đó dừng bước chỉ Dương Thu Trì nói: "Dương đại nhân, không phải ta không nói với ông, ông... ông quá không trượng nghĩa mà! Hiện giờ nhiều người biết Phượng nhi là thiếp của ông như vậy, cũng đều biết các người đã chung chăn gối viên phòng rồi, vậy làm sao để Phượng nhi gặp mặt thế nhân đây? Lúc ngươi nạp nó, nó đã bị sợ thành dạng vậy rồi, cái này đâu có phải là lỗi của Phượng nhi đâu chứ?"

    Phúc vương càng nói càng kích động, múa tay múa chân: "Hiện giờ ngươi định ăn xong quẹt mỏ vung chân đá nó à? Hừ! Hoa Khuê hoàng huynh tuy đã chết trước, mạch Sở vương chỉ còn co khuê nữ ngu khờ này, nhưng vẫn còn đám già chúng ta đây chi! Cho dù bổn vương không đáng gì, nhưng Quế vương, Huệ vương cũng là hoàng thúc của đương kim hoàng thượng. Dương đại nhân, ngươi khi nhục hoàng gia ta như vậy, xem ra là không coi hoàng thượng vào mắt chứ gì? Được được được! Chúng ta sẽ tấu thỉnh hoàng thượng định đoạt, thánh thượng nếu nhịn được cái nhục này, thì.... thì coi như chúng ta đánh rắm cái vậy!

    Từ đây về sau, ngươi đi đường của ngươi, chúng ta đi cầu độc mộc của ta! Cũng không cần ngươi bảo hộ chúng ta nữa, chúng ta ngồi đó... chở thiên mệnh vậy...!" Nói đến đây, lão tức giận có dư, lại khôi phục thương cảm, nhịn không được rơi hai hàng lệ dài.

    Quế vương và Huệ vương lạnh lùng nhìn Dương Thu Trì, không nói gì.

    Phúc vương nói thẳng nói nhanh một hồi, khiến trán Dương Thu Trì toát mồ hôi lạnh. Chuyện này có thể lớn mà cũng có thể nhỏ, nếu quậy tới triều đình, thì hắn kiếp trước làm Trấn quốc công cũng biết là hoàng thân quốc thích đều bảo hộ cho nhau rất dữ. Cho dù hoàng thân phạm tội, chỉ cần không phải là trọng tội mưu phản, thì đều được xá miễn. Sùng Trinh đế này người thế nào hán không biết, nhưng hết tám chín phần sẽ giúp ba vị vương gia, huống chi Quế vương và Huệ vương là hai ông chú ruột của hoàng đế nữa!

    Một khi sự tình này làm lớn ra, lúc đó thì phiền, vì thiên hạ này lớn, liệu hắn có chỗ dung thân không? Chẳng lẽ lại chạy ra hải ngoại? Cho dù hắn hiện giờ có súng đạn, nhưng muốn chống cả Đại Minh, e rằng còn chưa đủ sức. Huống chi tự hắn khi nói thật ra chuyện này, bá tánh cổ đại chẳng mấy hứng thú với chuyện tình thánh một vợ một chồng. Do đó, phần lớn họ sẽ đứng về phía đối diện với hắn, không ai theo hắn làm chuyện tầm phào này!

    Còn nếu đáp ứng, với tính cách cô ngạo của Liễu Nhược Băng, và kiếp trước nàng thà đau lòng trốn đi, chứ không chịu phân hưởng chồng cùng nữ nhân khác. Bản thân hắn xuyên việt đến đây, chẳng phải chỉ để hòa hợp chỉ mình Băng nhi, sống bên nhau trọng đời hay sao? Hiện giờ nếu hắn lại nạp thiếp, e rằng... nhớ lại Liễu Nhược Băng, mắt Dương Thu Trì chợt chuyển, nảy ra một kế, khom người nói:

    "Vương gia xin bớt giận, hãy nghe ti chức nói một lời, chuyết kinh võ công cao cường, trong đại chiến này phòng thủ thành lâu, đã chém giết kẻ địch xông lên mặt thành vô số. Điểm này Long tướng quân cũng vừa báo cáo với các vị vương gia xong. Ti chức trước đây đã từng đáp ứng với chuyết kinh là không nạp thiếp, nếu như giờ nạp tiểu quận chúa làm thiếp, e rằng chuyết kinh phẫn nộ trở mặt. Gia đình ti chức bất an chỉ là chuyện nhỏ, chỉ sợ sẽ ảnh hưởng chuyện kháng kích địch quân, sơ xuất trong bảo hộ ba vị vương gia, vậy... ti chức chịu không nỗi tội đâu a!"

    Nghe lời này, bốn người đều đưa mắt nhìn nhau, nếu như đã liên quan đến lợi ít trực tiếp, thì chuyện này cần phải suy nghĩ kỹ lại mới được. Ba vị vương gia chưa hề gặp qua Liễu Nhược Băng, không biết nàng là người thế nào, nhưng tổng binh thì đã gặp qua rồi. Với thân phận tổng binh đường đường của y mà còn chưa khiến Liễu Nhược Băng nhìn nữa con mắt, nên lão biết nàng là loại không vừa gì, lúc này y tốt nhất là gối cao ngủ kỹ, ngàn vạn lần đừng dây vào loạn, cho nên im miệng giả khờ.

    Ba vị vương gia thầm nghĩ, Dương thủ bị có phu nhân tuy võ công cái thế, nhưng nàng ta dù sao cũng là nữ nhân, phu quân nạp thiếp thì nữ nhân thường sẽ ít nhiều gì đó phải ghen, nhưng người thiếp này của phu quân sẽ mang đến địa vị cao xa Sở vương mà người thường dù phấn đấu cả đời cũng không có được. Đối với một nữ tử dân gian, thoáng cái đã trở thành vương phi với địa vị tôn quý, rõ ràng là một bước lên trời, sao có thể chống lại lực dụ hoặc mà từ chối được chứ? Nếu như nàng ta hiểu lợi hại, cộng với có người khéo léo dẫn đường, xem ra rất dễ giải quyết vấn đề này.

    Do đó, Quế vương trầm giọng hỏi: "Dương đại nhân có ý là, chỉ cần tôn phu nhân không phản đối, ngài sẽ nhận Phượng nhi làm thiếp, đúng không?"

    "Vâng, nếu chuyết kinh không đáp ứng, ti chức không những giữ lời hứa, mà ngay cả trong ăn nói cũng không dám đắc tội, để tránh làm lỡ đại sự bảo vệ an toàn cho ba vị vương gia. Do đó, mang vương gia hiểu cho."

    Quế vương ngẫm nghĩ, thấy chuyện này không thể làm cứng quá để tránh lỡ đại sự. Cho dù chuyện này không thành, có thể thông qua phương pháp khác lung lạc Dương Thu Trì, không cần gấp, nên đành nói: 'Vậy được, cứ định như thế đi. Dương đại nhân cứ đi lo chuyện chiêu binh trước, mấy người của bổn vương lập tức phái các vương phi đến phủ khuyên thử, nếu như tôn phu nhân đáp ứng, Dương đại nhân không thể từ chối nữa nhé, nếu mà không đáp ứng, thì.... thì coi như Phượng nhi mệnh khổ, chúng ta đã tận tâm rồi, không quản chuyện này nữa. Thế nào?"

    Huệ vương và Phúc vương đều gật đầu tán đồng, Dương Thu Trì cũng vội khom người đáp ứng.

    Lập tức, ba vị vương gia gọi quản gia của mình, dặn sắp xếp đưa ra 15 vạn lượng bạc trắng giao cho Dương Thu Trì làm quân hướng, sau đó trở về chỗ ở dặn dò các vương phi phải nghĩ cách thuyết phục phu nhân của Dương Thu Trì đồng ý thu tiểu quận chúa Chu Phượng Đức làm thiếp.

    Dương Thu Trì và các vị quản gia lựa chọn sắp bày giao bạc xong mất cả thời thần, chất đầy mấy xe tạm thời giữ trong ngân khố của nha môn, khiến ngân khố nho nhỏ đó đầy chật cả.

    Dương Thu Trì bận rộn xong, A Hạnh Ny hưng phấn chạy vào nói với hắn: "Thu Trì ca, chúng ta đã vận chuyển hồng di đại pháo về rồi, tổng cộng 29 chiếc. Ngoài ra, huynh đoán xem chúng ta tìm được gì trong quân doanh của địch quân bỏ lại?"
     
  10. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 130: Trù Kiến Quân Đội
    "Tìm được cái gì?" Dương Thu Trì mỉm cười hỏi.

    Gương mặt sáng bừng của A Hạnh Ny đầy vẻ hưng phấn: "Lương thực! Rất nhiều rất nhiều lương thực, đủ cả vạn người ăn nửa năm! Còn có mấy trăm thớt chiến mã!"

    Thì ra, Trương Hiến Trung phái ba vạn đại quân đi công đánh Kiềm Dương, mang theo hai tháng quân lương, bị Dương Thu Trì dùng súng máy maxim diệt hơn 5000 binh sĩ sau không quá nửa canh giờ, ngay tướng soái lĩnh quân cũng bị bắn thành cái tổ ong mất mạng đương trường. Các binh sĩ như rắn mất đầu sợ đến hồn phi phách tán, sợ Dương Thu Trì đuổi theo truy sát, ngay lương thảo và quân mã ở đại doanh cũng không cần, hoảng loạn chạy thục mạng về An Khánh phủ, cấp cho Dương Thu Trì một phần hậu lễ.

    Dương Thu Trì mừng rỡ vô cùng. Hiện giờ hắn đã có bạc, nhưng lại thiếu quân lương. Kiềm Dương huyện mấy năm trước đại hạn liên tục, không thu được hạt thóc nào, lão bá tánh đói đến nổi cỏ cây có thể ăn đều ăn sạch. Có người đói quá phải ăn đất trắng, bị đói chết hoặc chướng bị vì ăn đất mà chết. Số quân lương này quả là có lò sưởi trong tuyết a!

    Dương Thu Trì triệu tập bộ đầu Ngụy Trì, Lưu Dũng cùng các hộ vệ và lão hắc đầu, đem sự tình ba vị vương gia giao cho hắn tổ kiến tân quân trình bày ra. Mọi người đều rất cao hứng.

    Dương Thu Trì nói với Ngụy Trì: "Ngươi phụ trách tổ chức bộ khoái toàn huyện mang theo lục phòng thư lại đến các hương trại và phủ huyện gần đây dán cáo thị chiêu binh, đại ngộ khi tham quân là... à, cơm trắng, lương tháng trong quân..." Hắn chuyển sang hỏi Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ: "Các ngươi nhận thấy quân hướng định bao nhiêu thì hợp?"

    Hai người đưa mắt nhìn nhau, Lưu Dũng nói: "Quân đội đại Minh án theo định chế thì quân hướng mỗi tháng 300 văn, chỉ có điều về cơ bản đều bị ăn chặn ăn bớt hoặc là bị thiếu nợ không phát. Nhân vì hiện giờ chỗ nào cũng đói kém, có thể có bữa cơm ăn là không tệ rồi, tham gia quân đội thường là để có cái ăn, không bị đói. Còn về quân hướng có thì tốt, không có cũng không sao."

    Bộ đầu Ngụy Trì cũng nói: "Đúng a, tứ lão gia, à không, thủ bị đại nhân, quân đội này chỉ cần ăn no, không đói là có người tham quân rồi."

    Dương Thu Trì lắc đầu: "Cái đó là yêu cầu tối thiểu, không có quân hướng sĩ khí không cao, rất dễ nổi loạn, do đó cần phải phát lương thôi. Nếu như Đại Minh định chế quân hướng là 300 van, chúng ta cũng không làm trái quy củ, phát 300 văn, hơn nữa phải nói rõ với họ, rằng chỉ cần tham gia quân đội của ta, quân hướng sẽ phát đúng kỳ, không thiếu một văn!"

    Ngụy Trì cười nói: "Vậy thì hay quá, tin tức này truyền ra, đảm bảo hương thân ở các làng cũng đến đầu quân rồi."

    Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, nói với Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ: "Hai người phụ trách công tác tuyển chọn binh lính, nguyên tắc là 17 tuổi trở lên, 40 tuổi trở xuống, thân không tàn khuyết đều có thể. Đến lúc đó ta còn muốn từ trong đó tuyển chọn quân tinh nhuệ, tổ thành tân quân, phối bị vũ khí mới."

    Hai người ôm quyền đáp ứng.

    A Hạnh Ny nghe Dương Thu Trì nói, kéo kéo tay áo hắn: "Thu Trì ca, Đồng binh của muội cũng gia nhập, được không?"

    "Được a!" Dương Thu Trì cao hứng nói, "Từ lần đại chiến này mà xét, thì Đồng binh tác chiến dũng cảm, hành động theo chỉ huy, trận lấy ít thắng nhiều này công của Đồng binh không ít, đích xác là một chi sinh lực quân! Nhưng mà phụ thân của em có đồng ý không? Quân đội của chúng ta sau này có thể phải chinh chiến toàn quốc, Đồng binh có nguyện ý tham gia?"

    A Hạnh Ny đáp: "Phụ thân sẽ không phản đối, những ngày tháng ở Đồng trại rất khổ, hai năm vừa rồi chết đói không ít, ra ngoài chạy nạn cũng nhiều. Quân đội của Thu Trì ca có điều kiện tốt vậy, muội nói với họ là họ nhất định tham gia ngay."

    "Vậy được a! Hoan nghênh hai tay!" Dương Thu Trì cười nói.

    "Vậy em thì sao?" Gương mặt sáng như trăng rằm của A Hạnh Ny đỏ hồng, đôi mắt to chớp chớp, cười hàm tiếu hỏi: "Em cũng muốn gia nhập quân đội của huynh, hoan nghênh không?"

    "Em? Đương nhiên hoan nghênh rồi! Hai tay hai chân luôn! Nhưng mà, A Ny em không cần gia nhập chi nữa, em vốn là người của quân đội ta mà! Đừng có quên em là phó tướng của ta, đường đường là hiệp thủ của Kiềm Dương huyện!"

    "Hi hi!" A Hạnh Ny cười cười, , "Quan này không thèm, với lại không phải là quan trong quân, huynh phải phong cho em một chức khác cơ!"

    Dương Thu Trì nghĩ cũng đúng, chức thủ bị của bản thân là do tổng binh phong, chỉ giới hạn trong Kiềm Dương huyện, khi xuất chinh không thể dùng quan chức này, cũng không thể tự phong được. Quân đội này là 3 vị vương gia tự xuất tiền xây nên, dù sao cũng là quân của triều đình, tự nhiên phải do triều đình ủy nhiệm. Hắn liền cười nói: 'Chúng ta tạm thời dùng quan chức đó, sau này chờ tạo quân xong rồi tính."

    "Vậy em giúp ca làm cái gì?"

    "Em à, giúp ca tổ chức khai quặng, quặng càng nhiều càng tốt! Công tác này rất trọng yếu, quan hệ đến quân đội của chúng ta có đánh thắng hay không. Em cần làm tốt, coi như giúp ta một phần lớn rồi!"

    "Được thôi! Ca yên tâm, em lập tức tăng phái người ngày đêm không ngừng khai thác!"

    Dương Thu Trì lại nói với lão hắc đầu: "Lần này ông đã giúp ta chế tạo vũ khí trọng yếu nhất, lập đại công, ta thưởng ông 200 lượng bạc, ủy nhiệm ông làm cục trưởng chế tạo vũ khí cho quân ta! Ông toàn quyền phụ trách chế tạo vũ khí!"

    Lão hắc đầu mừng rỡ, quỳ xuống tạ ơn, lại hỏi: "Vậy khuyển tử..."

    Điểm này Dương Thu Trì đã nghĩ kỹ rồi, con trai Tiêu An Nhiên của lão hắc đầu tuy giết chết Triệu Thiên Châu, nhưng là có nguyên nhân, hơn nữa Triệu Thiên Châu vốn muốn chết, không nguyện ý tự sát, nên thiết kế để vòi tiền, bức bách Tiêu An Nhiên cuối cùng phải giết chết hắn. Bên bị hại rõ ràng là có sai, hơn nữa người chết cũng được trả mấy trăm lượng bạc rồi, cho nên Dương Thu Trì nói: "Con trai ông ngộ thương nhân mạng, hiện giờ binh hoang mã loạn, hình phạt lưu đày không dễ thật thi, vậy phạt 100 trượng, trả 100 lượng bạc chôn cất khổ chủ, sau này làm tiên sinh giữ tiền bạc trong cục chế tạo vũ khí của ông, lấy cộng chuộc tội."

    Lão hắc đầu dường như không tin vào tai mình, ông ta vốn chỉ hi vọng giữ được mạng con trai, phán lưu đày 3000 dặm là vừa lòng lắm rồi, không ngờ vừa giữ được tính mệnh, bị đánh 100 hèo là xong. Tuy phán bồi 100 lượng bạc tiền chôn cất, nhưng Dương đại nhân trước hết cho 200 lượng, như vậy là không lo tiền bồi thuờng rồi. COn trai ông ta còn ở bên cạnh làm việc, thật là cái vui từ trên trời rơi xuống, kích động khiến lão hắc đầu rơi lệ, vừa khóc vừa cười, dập đầu lia lịa.

    Dương Thu Trì vội đỡ ông ta dậy, bảo bộ đầu Ngụy Trì đem quyết định của mình báo cho tri huyện Lôi Minh biết, bảo ông ta cứ thế mà làm. Dương Thu Trì đã không còn là điển sứ tòng cửu phẩm trước đây nữa, mà là thủ bị chánh ngũ phẩm, đại cứu tinh của bá tánh toàn thành, phụ trách bảo vệ thành, là đại hồng nhân của ba vị vương gia, Lôi tri huyện đương nhiên vội y lời mà làm. Huống chi, ông ta không biết nội tình án này, đương nhiên Dương Thu Trì nói sao nghe vậy.

    Cùng lúc đó, Dương Thu Trì mệnh lệnh lão hắc đầu tổ chức hơn trăm thiết tượng phân công một bộ phận luyện nguyên liệu chế tạo tạc đạn, một bộ phận chế tạo vỏ đạn, đầu đạn và kíp nổ. Lực lượng chủ yếu lại chế tạo thêm hai cái súng máy maxim và một lượng lớn súng bộ binh lão sáo đồng. Thời gian khẩn cấp, cho nên họ chia hai ca làm việc ngày đêm.

    Tạo quân đội dù sao cũng có binh doanh, tổ kiến doanh trại chỗ nào đây? Dương Thu Trì nhớ lại học cung nho học rộng lớn kia, đó là một chỗ tốt, liền hưng phấn dẫn hộ vệ đến thị sát, nhìn qua rất vừa ý, quyết định sự dụng nơi này, di chuyển các tú tài còn lại vào nội nha của huyện thừa và chủ bộ học tập.

    Học cung này rất rộng, lại ở phía Tây thành, là hướng địch quân có khả năng tấn công nhất, phòng ốc chỉ hơi cũ chút mà thôi. Tuy nhiên, hiện giờ hắn có tiền rồi, rất dễ làm việc, liền phân công hộ vệ Phó Quan và Hồ Thủy phụ trách đốc kiến xây dựng binh doanh. Kinh phí do hắn tự thân chưởng quản, vì quyền tài vụ không thể để lọt vào tay người khác mà hắn chưa tin. Hắn cũng vẻ ra sơ đồ bố cục binh doanh giao cho họ theo đó mà thi công.

    Binh doanh này có diễn binh trường, trường huấn luyện vượt chướng ngại, trường tập bắn, kho vũ khí, kho lương, khu túc xá, tàu ngựa, còn có nhà ăn... Hắn đem hậu hoa viên chuyên môn chế thành cục chế tạo vũ khí, cho lão hắc đầu và các thiết tương di chuyển hết đến đây, phát lương gấp đôi cho những thợ rèn thợ sắc này, lão hắc đầu và những thiết tượng tiếp xúc được tin tức cơ mật thì lương gấp ba lần, khiến họ nhiệt tình và tích cực công tác. Đồng thời, để bảo mật, hắn còn thiết đặt vòng trong vòng ngoài ở cục chế tạo vũ khí, kiểm tra người ra vào rất nhiêm.

    Dương Thu Trì nhớ tới mấy nghìn thi thể ngoài thành chưa kịp chôn, hiện giờ là trời mùa hè, rất nhanh sình thối, có khả năng sẽ dẫn tới tật bệnh lưu hành, như vậy thì rất phiền. Hắn lập tức triệu tập lý trưởng toàn huyện thành, mở cuộc họp.

    Hiện giờ Dương Thu Trì ở Kiềm Dương huyện có thể nói là thần nhân, đâu đâu cũng truyền chuyện về vũ khí quái thú biết phun rắn của hắn, có thể chớp mắt cắn chết nhiều người, người chết sẽ có một lổ hổng xuyên suốt (Toại phát thương không có đủ uy lực, không thể tạo thành loại vết thương thế này), Dương thủ bị đang mang vũ khí diệt lui địch, bảo vệ nhân dân, cho nên mọi người trong thành đều kính nễ vợ chồng hắn...

    Dương Thu Trì yêu cầu, lý trưởng các khu trong huyện đều đua nhau tập hợp ở học cung trước kia. Hắn liền đem mối lo xuất hiện ôn dịch do thi thể sình thối nói ra. Hắn chưa kịp yêu cầu, lý trưởng các nơi đã đua nhau tỏ thái độ, nói đây là đại sự đối với bá tánh trong thành, đương nhiên sẽ tiến hành chôn thi thể địch quân. Những tướng sĩ trận vong bên quân nhà thì do vì bá tánh trong thành mà chết, nên họ sẽ động viên mọi người cùng chuẩn bị những cổ quan tài mỏng an táng.

    Dương Thu Trì rất hài lòng, lại cho gọi cả thảy lang trung trong thành, đem phương thuốc báo cho họ biết, bảo hộ phối tạo thuốc tiêu độc, tiến hành vệ sinh tẩy sạch các đường lớn nhỏ trong thành, đề phòng ôn dịch lưu hành.
     
  11. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 131: Ông Trời Đùa Cợt
    "Dương Thu Trì từ học cung vội vã trở về nha môn, vào nội nha điển sứ của mình, người mở cửa là Quách Tuyết Liên. Tiểu nha đầu le lưỡi nhìn hắn, cười quái quái, xong xoay người bỏ đi.

    "Chờ đó!" Dương Thu Trì khẽ gọi, chạy theo mấy biết giữ nàng kéo xoay lại, "Em thần thần bí bí làm cái gì đó?"

    "Không có a!" Quách Tuyết Liên ranh mãnh cười, "Nô tì đâu dám a!"

    "Hừ!" Dương Thu Trì ngẩng đầu quét mắt nhìn quanh vườn, thấy có rất nhiều nha hoàn và bà vú. Những người này thấy hắn đều lui qua một bên, cúi đầu đứng nghiệm. Hắn xoay chuyển ý niệm, hỏi: "Các vương phi đến rồi?"

    "Dạ đúng vậy! Nhưng mà đã về rồi."

    "Tiểu quận chúa đầu? Về luôn rồi à?"

    "Dạ," Quách Tuyết Liên cười hi hì nhìn hắn, làm mặt quỷ, cười: "Nhưng mà lão gia, sau này không thể gọi là tiểu quận chúa nữa, phải gọi là trắc vương phi...!"

    "Ý gì vậy?" Dương Thu Trì cả kinh.

    "Phu nhân đã đồng ý người nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi. Các vương phi của Quế vương, Huệ vương và Phúc vương cũng nói rồi, ba vị vương gia và tổng binh sẽ liên danh tiến cử người kế thừa tước vị Sở vương. Đến lúc đó, phu quân của chúng ta là vương phi, tiểu quận chúa tự nhiên là trắc vương phi rồi!"

    Hả? Dương Thu Trì như đang nằm mộng, không biết nên mừng hay lo, hỏi: "Phu nhân đâu?"

    "Đang ở trong phòng ngủ châm cứu cho tiểu quận chúa!"

    "Châm cứu?" Dương Thu Trì kỳ quái.

    "Đúng a, vương phi nương nương nói, trắc vương phi nương nương kinh khủng quá độ làm ảnh hưởng đến đầu, châm vài kim, cộng thêm vài thang thuốc, sẽ từ từ khỏe lên thôi."

    "Vậy à, thật sau? À mà cái gì vương phi trắc vương phi chứ! Còn chưa có gì hết, sau này không được nói loạn, để người ta cười cho!"

    "Dạ...!" Quách Tuyết Liên cười hi hi đáp ứng, nhanh chân bỏ đi.

    Băng nhi đồng ý hắn nạp thiếp? Không đúng a, tuy nàng trước đây đã để cho Quách Tuyết Liên lên giường hầu hạ hắn, nhưng một là nàng chuyển thế quên hết ước định kiếp trước, hai là lúc đó hai người chưa thành thân, thậm chí còn chưa nhận lời đến với nhau, Băng nhi vì để hắn có người lo liệu, muốn hắn sớm thành gia đừng để một mình cô khổ đáng thương. Nhưng hiện giờ hai người đã thành thân rồi, với tính cách cao ngạo của nàng, sao có thể dung nữ nhân nào khác chứ?

    Dương Thu Trì hơi nghi hoặc, từ từ đến phòng ngủ.

    Ngay từ xa hắn đã ngửi được mùi u hương, vén rèm lên đã thấy tiểu quận chúa nằm phục trên giường, đầu có cắm mấy ngăn châm, dường như đã ngủ đi. Liễu Nhược Băng đang dùng ngón tay khẽ lay động ngân châm.

    Nghe tiếng bước chân, Liễu Nhược Băng không quay đầu lại, khẽ hỏi: "Phu quân, chàng về rồi sao?"

    "Ừ!" Dương Thu Trì đến cạnh nàng, xem nàng làm việc, không nói chuyện quấy nhiễu. Lát sau, Liễu Nhược Băng rút ngân châm ra, dùng thuốc nước tẩy rửa, đặt trở lại vào ống đồng nhỏ, xong khẽ hỏi: "Phượng nhi, cảm giác thế nào?"

    "Dạ, đầu nóng lắm... giống như có con chuột nhỏ đang chạy trong đầu, hi hi, vui quá!" Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức khẽ mở mắt nói.

    "Vậy thì tốt, ngoan, nhắm mắt nghỉ ngơi một hồi đi." Liễu Nhược Băng đắp chăn mỏng lên cho tiểu quận chúa, quay mắt lại nhìn Dương Thu Trì tủm tỉm cười.

    Dương Thu Trì sung mãn yêu thương vuốt má nàng, khẽ bảo: "Chúng ta ra ngoài nói chuyện, được không?"

    Liễu Nhược Băng gật gật đầu, theo Dương Thu Trì ra ngoài. Hai người đến phòng khách, Dương Thu Trì vào đề thẳng: "Nàng đáp ứng đám vương phi đến khuyên bảo cho phép ta nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi?"

    Liễu Nhược Băng cười cười nhìn hắn, gật đầu.

    Dương Thu Trì dậm chân nói: "nàng sao lại đáp ứng chứ? Chúng ta không phải là nói rõ rồi, rằng cả đời này song túc song phi hay sao?"

    Liễu Nhược Băng bước tới khẽ kéo tay hắn, dịu giọng nói: "Phu quân, thiếp biết chàng tốt với thiếp, chàng có lòng này, Băng nhi có chết cũng không hối hận gì rồi!"

    "Không phải chỉ là vấn đề có lòng này! Nàng quên ước định tiền thế của chúng ta rồi..." Nói đến đây, hắn ngẫm nghĩ, chuyện ước định sống trọn vợ trọng chồng bên nhau này là định vào kiếp trước, hắn xuyên việt trực tiếp đến đây nên giữ ký ức trước kia, chứ Liễu Nhược Băng chuyển thế đầu thai, cho nên đã quên sạch rồi. Hắn bèn ôm eo nàng, khẽ bảo: "Băng nhi, ta đã đáp ứng nàng là cùng nàng song túc song phi mà!"

    Đôi mắt phượng của Liễu Nhược Băng chớp chớp, nghi hoặc nhìn hắn, tựa hồ như hỏi hắn hứa với nàng lời này từ khi nào vậy, tại sao nàng lại không biết?

    Dương Thu Trì hôn má nàng: "Đây là lời hứa kiếp trước, nàng đã không nhớ rồi, nhưng ta thì nhớ, do đó ta phải tuân thủ!"

    Liễu Nhược Băng ứa lệ, khẽ dựa vào lòng hắn: 'Chàng cứ nói mãi kiếp trước kiếp này, Băng nhi không biết, nhưng nghe chàng nói vậy, Băng nhi rất thích!"

    "Ừ, ta đáp ứng nàng chuyện gì nhất định phải làm cho được. Do đó, chúng ta hiện giờ đi gặp các vương gia đó nói rõ, không thể nạp tiểu quân chúa làm thiếp. Bọn họ hiện giờ còn phải dựa vào chúng ta, không sợ họ làm dữ đâu!"

    Liễu Nhược Băng khẽ lắc đầu, hôn đáp lại hắn: "Phu quân, chàng nghe thiếp này. Băng nhi sở dĩ đáp ứng cho phu quân nạp thiếp, không phải là không lo nữ nhân khác phân hưởng chàng." Nói đến đây, đôi mi dài của nàng chớp chớp, lời nói hơi ảm đạm, "Phàm là nữ nhân, mấy ai không hi vọng phu quân chỉ sủng ái một mình mình chứ? Băng nhi cũng như vậy, cũng muốn cùng phu quân song túc song phi, ân ái đến bạc đầu..."

    "Thì đúng rồi! Phu quân là nghĩ vậy đó, cho nên chúng ta mới không thể nạp tiểu quân chúa làm thiếp a!"

    "Lời tuy là nói vậy, nhưng thế sự vô thường, lòng Băng nhi tự biết cân đo. Phu quân đối tốt với Băng nhi thế nào Băng nhi biết, nhưng Băng nhi không thể được sủng mà kiêu, và cũng là người biết chuyện. Trước khi Băng nhi và phu quân thành thân, phu quân đã nạp tiểu quận chúa làm thiếp, có văn khế làm bằng, lần này đến Trấn Viễn phủ, hai người lại... sau đó, phu quân mới cùng Băng nhi bái thiên bái địa thành thân. Vốn ra tiểu quận chúa vào nhà trước, nàng ấy phải là nguyên phối mới đúng. Phu quân thương xót Băng nhi, cho Băng nhi làm chánh thất, đã là vạn hạnh cho Băng nhi rồi. Nếu như không còn biết điều, đòi đuổi tiểu quận chúa ra cửa, thì thái quá bá đạo rồi."

    Dương Thu Trì trợn mắt, nói: "Nhưng ta nạp cô ấy làm thiếp chẳng qua là kế quyền nghi bất đắc dĩ..."

    "Băng nhi tin lời phu quân, nhưng mục đích nạp thiếp của phu quân là chuyện cá nhân, người khác sẽ không biết rõ chuyện này, chỉ biết chàng đã nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi, cũng đã viên phòng rồi, hiện giờ còn muốn..."

    "Chưa viên phòng! Ta căn bản không có đụng cô ấy...., à có đụng, nhưng căn bản không cùng cô ấy... cái gì cái gì đó! Dù sao thì cô ấy vẫn còn thân xử nữ, không tin nàng có thể...."

    "Tin! Băng nhi tin từng lời của phu quân!" Liễu Nhược Băng ôm chằm lấy cổ hắn, nhìn bộ dạng gấp gáp của hắn, lòng rất cảm động. Trượng phu người ta nghe nói vợ đồng ý cho nạp thiếp, e rằng nhảy cẵng lên nâng ly mừng rỡ, không ngờ tên ngốc này (hay là giả ngốc?) cứ từ chối tới lui, cứ muốn cùng như đôi chim liền cánh bay suốt cuộc đời với nàng! Có chồng như vậy còn cầu chi nữa! Nghĩ đến chuyện nhu tình, nàng không khỏi dâng cho hắn nụ hôn thật ngọt ngào, sâu đậm!

    Dương Thu Trì mới đầu hôn bị động, sau đó lửa dục hùng hùng, phản khách vi chủ, ôm chặt nàng vừa hôn vừa sờ, khiến Liễu Nhược Băng hít hà liên tục, đẩy bật hắn ra, vừa thẹn vừa oán trách: "Coi chàng kìa! Bên ngoài còn có người đó!"

    Dương Thu Trì ôm chầm nàng, giọng van nài: "Phu quân định hôn nàng mà, ai bảo nàng chọc ta chi?" Xong thò tay bóp lên gò ngực cao vọi của nàng liên tục.

    Liễu Nhược Băng rên lên dựa hẳn vào người hắn, thở hỗn hễn nói: "Phu quân, không được! Làm vậy sẽ làm hao tổn công lực của Băng nhi đó..."

    Dương Thu Trì cả kinh, vội dừng tay lại: "Sờ chút mà cũng hao tổn công lực của nàng?"

    "Dạ, vốn trước đây thiếp không biết, nhưng đêm thành thân chàng...., sau đó, thiếp cảm thấy khi tụ khí có cảm giác lơi lỏng, không tùy tâm sở dục như trước nữa, trong lòng cứ nghĩ mãi... nghĩ mãi đến chuyện đó..., không biện pháp tập trung tư tưởng."

    Thôi rồi! Dương Thu Trì đứng ngẩn cả buổi mới lấy lại thần. Xem ra, đồng tử công của Liễu Nhược Băng không những không thể phá thân, mà nam nữ thân mật cũng sẽ bị ảnh hưởng, sẽ làm loạn tâm thần khiến nàng không cách gì ngưng thần tụ khí. Hắn cười khổ hỏi:

    "Vậy làm sao bây giờ? Ta nghĩ cho dù là không viên phòng chân chính, chỉ cần ôm nàng thân mặt, yêu đương chút chút bên ngoài cũng không sao chứ. Hiện giờ xem ra ngay cả đụng cũng không được."

    Liễu Nhược Băng áy náy dựa vào hắn: 'Xin lỗi, phu quân, thiếp cũng không biết sẽ như vậy. Nhưng mà không sao, cho dù mất chút công lực, Ngải Miêu Miêu đó muốn thắng thiếp cũng khó lắm!"

    Dương Thu Trì lắc đầu ủ rũ: "Cái đó không được! Cao thủ đối quyết, sự sai biệt chút xíu đã có thể ảnh hưởng đến sinh tử. Nàng lại không cho ta giúp, do đó, chúng ta hãy nhẫn nhịn một chút cho xong."

    Liễu Nhược Băng lại hôn hắn: "Thiếp cũng nghĩ vậy, nhưng không biết phải nhịn bao lâu. Dù sao cũng không thể để phu quân vậy được. Hiện giờ thì ổn rồi, nạp tiểu quận chúa làm thiếp, tối đến phu quân có người thị tẩm, thiếp có thể an tâm luyện công chuẩn bị cho trường quyết chiến này."

    "Cái gì? Nàng nói để cho tiểu quận chúa và ta...? Cái đó không được đâu! Nói là không nạp thiếp rồi mà!"

    "Nghe thiếp nói! Phu quân," Liễu Nhược Băng trịnh trọng nói, "Chàng nạp tiểu quận chúa trước, không quản là với lý do gì, chúng ta cũng phải nhận, vì danh tiết một đời cho tiểu quận chúa, và cũng vì tín nghĩa của phu quân, chúng ta không thể để người ta nói sau lưng được. Chuyện này cứ định như vậy đi!"

    "Nhưng mà..."

    "Không có nhưng mà, phu quân, lần này chàng phải nghe Băng nhi!"

    Dương Thu Trì dậm chân: "Băng nhi! Nàng hiện giờ mất ký ức không biết, chờ khi biết về ước định kiếp trước của chúng ta rồi, nàng sẽ hối hận đó!"

    Liễu Nhược Băng ấm lòng, dịu dàng nhìn hắn: 'Chàng cứ nói kiếp trước, dường như là biết chuyện kiếp trước của chúng ta vậy, mà cho dù chàng biết chuyện kiếp trước, có lời ước định kia, chỉ cần chàng có lòng này, Băng nhi cũng đã mãn nguyện rồi. Nếu như ông trời để chàng nạp tiểu quận chúa làm thiếp trước, sau đó thành thân với Băng nhi, thì đó cũng là sự sắp xếp của ông trời. Phu quân, kiếp này chúng ta có thể ở với nhau, có thêm một tiểu quận chúa Băng nhi cũng không để ý đâu, nhân vì Băng nhi biết trong lòng chàng chỉ có Băng nhi, như vậy là đủ rồi!"
     
  12. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 132: U U Động Phòng
    Dương Thu Trì cười khổ: "Cái này.... hay là chờ sau này hẳn tính vậy!"

    Liễu Nhược Băng nói: "Chuyện này đã được định rồi, các vương phi đã tiễn tiểu quận chúa đến cùng lễ vật và nữ tì. Thiếp cũng đã thế chàng thu lấy rồi. Đúng rồi, tối này ba vị vương gia còn thiết yến chúc mừng nữa."

    "Chúc mừng cái gì a! Ta còn phải gấp chế tạo đạn dược, nếu không địch nhân đến đánh chúng ta làm sao đây?"

    Liễu Nhược Băng cười cười: "Vốn ra là ba vị vương gia nói còn bày tiệc toàn thành treo đèn kết hoa nữa, thiếp vội ngăn lại, nói chàng phải vội chuẩn bị vũ khí ứng đối địch nhân, lúc này quân tình khẩn cấp, không tiện làm lớn, bọn họ mới chịu thôi. Còn về địch nhân, lần này chúng bỏ chạy tán loạn, ngay lương thảo và quân mã ở đại danh cũng bỏ, cho nên trong thời gian ngắn sẽ không đánh đến nữa đâu. Hơn nữa, ăn cơm tối cũng đâu có ảnh hưởng đến chuyện gì. Được rồi, mau đi làm đi, thiếp còn luyện công nữa."

    Dương Thu Trì vội ra đứng trong vườn, lòng không biết nên vui hay buồn. Kiếp trước hắn nạp bảy nàng thiếp, đều hoan thiên hỉ địa, không có lần nào sầu mi khổ mặt như thế này.

    Hắn lười nghĩ tiếp, gọi bọn hộ vệ nhồi đạn pháo vào lập tức khởi công, hắn phối thuốc họ nhồi.

    Lần này bận rộn tới chiều tối, quản gia của ba vị vương gia đến mới vợ chồng Dương Thu Trì và tiểu quận chúa đến dự yến.

    Liễu Nhược Băng đã lệnh cho nha hoàn giúp tiểu quận chúa đổi lại áo cô dâu, còn Dương Thu Trì chỉ thay bộ đồ mới rồi vào nội nha của tri huyện.

    Tuy nói là tiệc gia đình, nhưng ba vị vương gia vì muốn tạo thanh thế, củng cố chuyện đã thành sự thật, đã thỉnh những hương thân danh lưu có tiếng trong thành, cùng lục phòng tư lại của huyện nha đến dự, bàn tiệc bày đầy cả vườn.

    Quế vương, Huệ vương và Phúc vương cao hứng vô cùng, nói phu nhân của Dương Thu Trì đồng ý cho hắn nạp tiểu quận chúa làm thiếp thuận lợi vượt ngoài sự tưởng tượng của họ. Mấy vương phi chỉ tốn mấy khắc là về, vui mừng báo cho họ biết Dương phu nhân là kẻ thông tình đạt lý, họ vừa mở lời đã đồng ý ngay.

    Làm thành chuyện này, ba vị vương gia vững tin hơn, lập tức liên danh viết tấu chương, ní về chiến công của Dương Thu Trì và tác dụng trọng yếu của hắn đối với Đại Minh, cực lực tiến cử hắn với thân phận nghi tân kế thừa tước vị Sở vương, sau đó dùng bát bách lí gia cấp khẩn cấp đưa lên kinh thành.

    Tuy hiện giờ thiên hạ đại loạn, nơi nào cũng có chiến hỏa, nhưng dịch trạm của Đại Minh vẫn còn vận hành suôn sẻ, chẳng qua chỉ cần đi đường vòng mà thôi.

    Nội nha của tri huyện treo đèn kết hoa, tiếng cười vui không ngớt. Trong vườn đầy rượu thịch, trên tửu yến, Quế vương còn chuyên môn an bài nghi thức nạp thiếp hiến trà, đây là nghi thức trọng yếu cường điệu tôn ti.

    Tiểu quận chúa áo cô dâu khăn trùm đầu, tiếp trà thơm từ nha hoàn đưa qua, án chiếu theo nghi thức dập đầu dâng trà cho Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng, nhưng Liễu Nhược Băng chấp ý không chịu, nói bản thân đã chiếm tiện nghi, ủy khuất cho tiểu quận chúa rồi, nên không thể thụ nhận quỳ bái của nàng nữa, sau này cũng lấy quyền bình đẳng mà đãi tiểu quận chúa.

    Liễu Nhược Băng độ lượng như vậy khiến Quế vương và mọi người mừng rỡ, đua nhau khen nàng là mẫu mực. Nhưng mà, bọn họ nhận thấy nguyên phối chỉ có một, không chịu ngồi ngang hàng, Dương Thu Trì cũng nhận thấy vậy sẽ ủy khuất Liễu Nhược Băng, nên không đồng ý, Liễu Nhược Băng đành phải nhận.

    Chúng hương thân đạibiểu dân chúng toàn thành đua nhau bước lên kính rượu ba vợ chồng Dương Thu Trì.

    Để nạp tiểu quận chúa làm thiếp, trước sau đã cử hành qua ba nghi thức. Lần đầu là Trầm Lỗi tổ chức tửu yến nạp thiếp, lúc đó thuần túy là vì muốn làm nhục tiểu quận chúa. Lần thứ hai ở Trấn Viễn phủ, cữu mụ của tiểu quận chúa chủ trì, lúc đó Dương Thu trì phản đối làm tiệc lớn, nên chỉ treo đèn kết hoa mà thôi. Có điều hai người lúc đó cũng tiến vào động phòng, nhưng Dương Thu trì không coi là thật. Còn lần này bất động, Quế vương có lòng gán ghép, mục địch để mọi người đều biết Dương Thu Trì hiện giờ là nghi tân mới của Sở vương rồi, nên dù bị Liễu Nhược Băng ngăn cản, không thể làm với quy mô lớn, nhưng cái gì nên có đều có cả, không thiếu cái nào.

    Trừ việc bái thiên địa không cử hành, tửu yến bày đủ lễ tiết như cưới vợ vậy.

    Sau khi trải qua mấy tháng điều dưỡng, theo hoàn cảnh cải biến, cộng với sự châm cứu trị liệu của Liễu Nhược Băng, bệnh tình của tiểu quận chúa đã từ từ chuyển tốt, chí ít là không ngơ ngẩn ngờ nghệch như ban đầu, thậm chí còn thỉnh thoảng nhìn ngắm Dương Thu Trì e thẹn ai oán, khiến mọi người đều hoài nghi không biết tiểu quận chúa ngốc thật hay giả vờ.

    Dương Thu Trì vốn muốn nhanh chóng uống rượu xong rồi trở về tiếp tục chế tạo đạn dược, nhưng ba vị vương gia và chúng hương thân không hiểu tính trọng yếu và khẩn bách của việc này, còn thật sự cho rằng hắn có một quái thú biết phun rắn, có thể chớp mắt cắn chết mấy trăm thậm chí cả nghìn địch quân, cộng thêm có bạch y nữ hiệp Liễu Nhược Băng mười năm nay là nhân vật như trong thần thoại.... họ cho rằng hai vợ chồng đã trở nên mức ghê ghớm là người chặn giết người, phật ngăn chém phật, chẳng gì bất lợi. Và nếu không phải là hai vợ chồng hắn, ba vị vương gia và bá tánh toàn thành ở đây đã làm quỷ không đầu dưới đao hoặc ở tù dưới gông cùm xiềng xích rồi, cho nên họ tận khả năng bày tỏ sự cảm kích qua rượu, kính nhiều thêm vài bôi để biểu đạt ý cảm tạ trong tâm mà thôi.

    Dương Thu Trì vốn là tửu quỷ, trước giờ chưa có thói quen từ chối rượu. Hắn vốn khôngmuốn uống nhiều, nhưng khi nghe A Hạnh Ny lúc kính rượu nói đã phái Đồng binh đi thám tra tứ phía rồi, một khi có tình huống lập tức báo cáo. Còn du kích tướng quân Long Bỉnh cũng nói chuyện thành phòng đã sắp xếp ổn thõa, bảo hắn ân tâm ăn mừng. Lưu Dũng thì báo cáo cho hắn một tin tức tốt hơn, nói hôm nay đã chiêu thu hơn ba nghìn tân quân, đã phối phát toàn bộ vũ khí tước của địch khi thu dọn chiến trường cho họ lên phòng thủ ở thành lâu. Hắn lại nhớ đến lời của Liễu Nhược Băng nói trước đó, là địch quân lần này sợ quá chạy tán loạn, sẽ không thể thực hiện cú hồi mã thương. Chuyện phối đạn cũng không phải nhất thời, nên hắn yên tâm uống rượu thỏa sức.

    Hắn mạng Liễu Nhược Băng và tiểu quận chúa Chu phượng Đức đi đến từng bàn kính rượu. Uống thoải mái thế này dĩ nhiên càng náo nhiệt hơn. Tổng binh Khổng Hi Quý tuy thèm thuồng vẻ đẹp của Liễu Nhược Băng, bị ánh mắt lăng lệ của nàng quét trúng, không dám nhìn nàng lần nào nữa.

    Bữa tiệc vui này uống rất thoải mái, Dương Thu Trì gần như say mèm, bị Liễu Nhược Băng và tiểu quận chúa đưa về. Ba vị vương gia cũng cao hứng đi theo tiễn về đến nội nha điển sứ mới tận hứng mà tan.

    Quách Tuyết Liên đã sớm chuẩn bị tỉnh tửu thang cho Dương Thu Trì uống, nhưng hiểu quả không rõ lắm.

    Nhân vì lần này hắn vừa trải qua tràng quyết đấu sinh tử, một mình giết quá nhiều địch quân, nên sự tác động đến thần kinh không phải một ngày một bửa là bình phục, cộng thêm xuyên việt đến đây lần đầu nạp thiếp không biết nên vui hay nên buồn, nên uống hơi nhiều, hai chén tỉnh tửu thang mà không thể làm hắn tỉnh.

    Dương Thu Trì nhướn mắt say mèm kéo tay Liễu Nhược Băng cười hì hì kéo nàng về phòng đòi nghỉ. Liễu Nhược Băng cũng uống hơi say, cứ mặc cho hắn kéo, nhưng lại đưa hắn đến phòng của tiểu quận chúa, rồi cùng Quách Tuyết Liên cùng giúp cởi áo bào cho hắn, phục thị hắn nằm xuống xong thì đã thấy hắn ngủ khò.

    Liễu Nhược Băng yêu thương hôn lên trán hắn, nhìn tiểu quận chúa cười hì hì ngốc nghếch, thở dài một cái rồi bỏ ra khỏi phòng. Quách Tuyết liên cũng theo sau.

    Tiểu quận chúa cũng uống mấy bôi, mặt đỏ hồng, bước tới kéo tay Quách Tuyết Liên không chịu buông, nói là muốn cùng nàng chơi cửu liên hoàn.

    Quách Tuyết Liên cười hi hi tránh ra, nói vào tai nàng: "Quận chúa, đêm nay là đêm động phòng hoa chúc, nàng và lão gia của nàng chơi ở trên giường đi!"

    "Chơi với lão gia ở trên giường? Hi hi, được a, lên giường chơi! Không cho nàng đi, ba chúng ta cùng chơi!"

    Nói xong, tiểu quận chúa tú, Quách Tuyết Liên kéo lên giường, khiến Quách Tuyết Liên đỏ bừng cả mặt, hất hai tay nàng, xong đẩy nàng ngồi lên mép giường: "Trò chơi động phòng này chỉ có mợ và lão gia chơi được thôi! Nô tì không có phúc khí đó!"

    "Không mà! Ta cứ muốn nàng chơi cùng với ta, ba chúng ta cùng chơi!" Tiểu quận chúa túm tay Quách Tuyết Liên không chịu buông.

    Quách Tuyết Liên hất tay không được, đỏ mắt nháy miệng về phía Dương Thu Trì: "Coi kìa! Lão gia của nàng tỉnh rồi, muốn chơi cùng với nàng kìa!"

    "Vậy sao?" Tiểu quận chúa quay đầu lại nhìn.

    Quách Tuyết Liên lén nhìn Dương Thu Trì, không ngờ mắt tập trung vào giữa hai đùi của hắn. Dưới ánh đèn lồng đỏ và nến chiếu sáng, nàng chợt thấy hạ bộ của hắn cao như gò núi, thế trận giống trống phất cờ rất rõ ràng. Quách Tuyết Liên nhớ lại đã từng tận tay sờ mó cột đèn đó, tức thời thẹn không biết làm sao, nhân lúc tiểu quận chúa quay đầu, tay hơi lỏng đi, liền dùng sức rút tay về, chạy vụt ra khỏi phòng thuận tay đóng cửa lại. Ra ngoài hành lang, đứng đứng phắt lại, cảm thấy tim đập thình thịch, lòng cũng tự dậy lên niềm thương cảm: biết tới bao giờ đèn hồng nến phúc mới được thắp lên cho nàng đây? Liệu nàng có ngày đó không?

    Tiểu quận chúa đuổi theo tới cửa, bị Quách Tuyết Liên chèn cửa phía ngoài, gọi hai tiếng mà không ai đáp, liền giậm chận ỏng ẹo, trở lại bên giường, thấy Dương Thu Trì ngủ khò khò, mũi phập phồng nhìn rất tức cười, liền dậy lòng tinh nghịch, đưa tay bịt mũi hắn.

    Lát sau, Dương Thu Trì hô hấp không được, lắc nghiêng đầu hất tay nàng ra, xoay người vào trong ngủ tiếp.

    Tiểu quận chúa bụm miệng cười, đẩy hắn một cái, Dương Thu Trì không cảm thấy gì, vẫn còn trong giấc mộng chu công. Tiểu quận chúa chụp tay hắn lắc lắc: "Lão gia! Lão gia! Dậy chơi với Phượng nhi a...!"

    Không ngờ Dương Thu Trì lần này say quá, vẫn ngủ khò.

    Tiểu quận chúa hừ một tiếng, vung tay đánh nhẹ vào cánh tay hắn: "Không dậy Phượng nhi không thèm chơi với lão gia nữa!"

    Trừng mắt nhìn hắn một hồi, thấy không động tĩnh gì, tiểu quận chúa chề môi, cởi giày thêu hoa, ném mạnh vào góc tường, cởi hết quần áo cô dâu và khăn trùm, cũng quẳng mạnh ra ngoài bàn, trên người chỉ còn tiết y màu đỏ hồng.

    Tiểu quận chúa quỳ đôi đùi ngọc trắng thon như phấn dồi bò lên giường, nằm cạnh Dương Thu Trì, kéo mền qua đắp, nhắm mắt lại. Một lúc sau, nàng lại mở mắt, mượn ánh đèn nhìn Dương Thu Trì, thấy hắn ngủ rất say, ngẫm nghĩ một hồi, đưa tay bứt sợi tóc trên đầu, cẩn thận chọc vào lổ tai hắn, khẽ se.

    Dương Thu Trì ngứa lổ tai, trong vô thức đưa tay quơ quơ, hất tay tiểu quận chúa ra, nhưng không mở mắt, tiếp tục ngủ vùi.

    Tiểu quận chúa che miệng cười, cảm thấy rất vui, liền quỳ lên nhỏng mông, dùng tóc tiếp tục ngoáy vào lổ tai hắn.
     
  13. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 133: Ràng Buộc
    Lổ tai Dương Thu Trì ngứa rất khó chịu, trong lúc nửa tỉnh nửa ngủ, nửa say nửa sỉn đưa tay định chụp tạy tiểu quận chúa, nhưng bị nàng cười hắc hắc tránh né.

    Tiểu quận chúa lại tiếp tục chọc ghẹo Dương Thù Trì, hắn bèn quay qua ôm nàng vào lòng luôn cho khỏi phiền phức.

    Tiểu quận chúa chỉ mặc một tiết y sát người, còn Dương Thu Trì thì đã bị Quách Tuyết Liên cởi hết chỉ còn lại nội khó. Hai nam nữ trần người lỏa thể ôm nhau như vậy, kết quả không nghĩ cũng biết.

    Do đó, Dương Thu Trì sau khi ôm người ngọc vào lòng, trong cơn say cêếnh choáng, đã hồn nhiên không biết người trong lòng là ai, cảm thấy nữ tử trong tay kiều khu như lửa, khiến cho toàn thân hắn cũng nóng rực lên. Dương Thu Trì làm hòa thượng đã lâu, đã sớm bị lửa dục thiêu đốt mụ cả người, giờ có thiếu nữ trần trụi nằm trong lòng, sao có thể khắc chế nỗi. Hắn lật người lên, nhoáng cái đã lột sạch chút vướng víu còn lại của hai người, kéo hai đùi nàng dậy, đẩy núi vàng, xoay trụ ngọc, chợt nghe tiểu quận chúa la lên một tiếng thảm thiết: 'A...! Lão gia...., không chịu đâu, đau quá hà... hu hu hu..."

    Tiểu quận chúa vừa khóc vừa dùng ngọc thủ trắng muốt định đẩy hắn ra, nhưng làm sao đẩy nổi. Nhưng tiếng hô thảm này cuối cùng đã làm Dương Thu Trì tỉnh hẳn.

    Hắn đột nhiên phát giác người ngọc dưới thân là tiểu quận chúa, đang ràng rụa khóc ròng, còn hắn đã long thương cắm vào thành địch, liền vội dùng 12 đạo kim bài ra lệnh triệt quân, ngồi ngơ ngẩn nhìn tiểu quận chúa khóc lóc, không biết làm sao cho phải. Hắn đành nằm xuống cạnh nàng, khẽ ôm nàng vào lòng an ủi, dịu dàng hỏi: "Phượng nhi, ta làm nàng đau hả?"

    "Dạ...! Đau lắm! Phượng nhi không chơi nữa! Chơi không vui gì hết..! Hu hu hu..." Tiểu quận chúa một tay gạt lệ sụt sùi, một tay đưa tới chỗ kín đã thụ thương che đậy.

    "Xin... xin lỗi a..." Dương Thu Trì ấp úng nói, "Ta....., ta uống say rồi."

    Tiểu quận chúa không quản chuyện đó, nghe hắnn nói vậy càng ủy khuất hơn, khóc cực lớn giống như còi xe lửa hụ vậy.

    Dương Thu Trì nghe nàng khóc lớn, sợ người ở ngoài nghe thì không hay, trong cơn hoảng loạn vội áp người hôn môi nàng, nhẹ nhàng đưa lưỡi qua bịt kín miệng nàng, tay còn lại thì tập kích lên gò ngực tròn trịa của nàng, như bướm vờn trên nụ hồng.

    Chiêu này nhanh chóng có hiệu quả, vì thật nhanh sau đó, tiếng khóc của tiểu quận chúa nín dần, chuyển thành tiếng rên khe khẽ.

    Dương Thu Trì nghĩ trong cơn say chếnh choáng đã đoạt mất trinh tiết của tiểu quận chúa, không cấp cho nàng chút ôn tồn mơn trớn nào, lòng cảm thấy áy náy hối lỗi, nên dùng hết tinh thần vuốt ve kích thích tiểu quận chúa, nhanh chóng khơi dậy lửa dục bản năng của nàng, khiến nàng chủ đồng ôm hôn trả lại hắn.

    Khi tiểu quận chúa hơi thở như lan, hỗn hà hỗn hễn không biết trời đất gì nữa, Dương Thu Trì mới vạch hai chân nàng ra, nhẹ nhàng lên ngựa, hoàng long lại đánh trở về thành.

    Trong thoáng này, hắn liền nhìn xuống, thấy hạ thân trắng muốt của tiểu quận chúa thắm vệt máu hồng, hiểu rằng nàng quả nhiên còn giữ thân xử nữ, nên ôn tồn từ tốn hơn.

    Trong trận mây mưa này tiểu quận chúa không còn la đau nữa, triền miên tình ý, hưởng thụ hết lần này đến lần khác cái vui cá nước, đến canh năm hai người mới ôm nhau ngủ vùi.

    Sáng hôm sau, hai tiểu nha hoàng tiến vào phục thị tiểu quận chúa tẩy rửa, nhưng tiểu quận chúa lười nhác mệt mõi nằm rúc vào lòng Dương Thu Trì không chịu dậy.

    Dương Thu Trì còn rất nhiều việc cần phải làm, lại muốn đi gặp Liễu Nhược Băng một chút, nên nựng vào mông của nàng mấy cái, rồi chọc vào nách nàng, khiến tiểu quận chúa cười nắc nẻ trốn vào trong góc, mới thoát thân xuống giường.

    Sau khi tẩy rửa thay y phục xong, hắn e dè vào phòng của Liễu Nhược Băng.

    Liễu Nhược Băng đang ngồi luyện công trên bồ đoàn, thấy hắn tiến vào, nhỏen miệng cười hỏi: "Ngủ ngon không?"

    Thấy Liễu Nhược Băng có thần sắc như vậy, Dương Thu Trì cũng yên tâm mấy phần, chân chánh khẳng định nàng đích xác là tự nguyện để hắn nạp thiếp. Hắn ngồi xuống cạnh nàng, hôn khẽ vào tai nàng: "Ừ, cũng ngon, nàng thì sao?"

    Liễu Nhược Băng hôn đáp lại hắn: "Ngon lắm, thiếp đang hẩn trương luyện công. Chàng tối qua đã để lỡ nhiều thời gian, nên đi làm đi, lỡ để địch quân đánh lại thật mà đan khai hoa và đạn súng máy của chàng chưa chế tạo ra, nguy hiểm lắm đó!"

    Nàng nghe Dương Thu Trì nói qua tạc đạn và súng máy, do đó biết đó không phải là quái thú gì, mà là một loại hỏa khí lợi hại. Nàng cũng biết qua uy lực của hỏa khí này, cho nên bảo Dương Thu Trì làm nhanh. Dương Thu Trì đáp ứng, đứng dậy ra cửa.

    Công tác kiến thiết binh doanh không dừng lại một khắc nào. Xưởng đồ sắt đã di chuyển vào trong binh doanh mới, những nguyên liệu luyện ra ngày hôm qua cũng đã vận chuyển đến nội nha. Chuyện phối trí thuốc nổ đắng, thuốc nổ không khói và ngòi nổ là cơ mật trung tâm, cho nên Dương Thu Trì vẫn một mình làm ở sương phòng trong nội nha, đảm bảo bí mật.

    Hắn bận rộn suốt cả ngày mới tạo ra 500 viên đạn có thuốc nổ và ngòi nổ, cộng thêm một ít tạc đạn. Không biết địch quân sẽ tấn công khi nào, hắn rất gấp, quyết định trong thời gian này cần phải tăng ca làm thuốc nổ.

    Đêm tân hôn, tiểu quận chúa hưởng được thú vui ân ái, cứ chạy lại gõ cửa phòng hắn, không chịu mở cửa không đi. Dương Thu Trì chỉ đành ôm nàng nồng ấm một phen, nàng mới chịu trở về cùng Quách Tuyết Liên chơi trò cửu liên hoàn. Nhưng đến tối, trời vừa tắt nắng, lên đèn là tiểu quận chúa kéo Dương Thu Trì lên giường, giúp hắn cởi y phục quấn quít đòi mây mưa.

    Dương Thu Trì thấy nàng nhiệt tình như lửa, tuy công tác bận rộn, nhưng không nhẫn tâm làm tắt hứng trí của nàng, phải đi ngủ sớm.

    Khi mây mưa trên giường, tiểu quận chúa ngây ngô không biết cái gì, Dương Thu Trì bảo nàng làm gì nàng làm cái đó, nên nào là "lão hán thôi xa", "quan âm ngồi tòa xen", "nàng hầu nhổ củ cải", "thương nữ bất tri vong quốc hận"... toàn những tư thế hắn biết được trong phim A (phim Adult, tình dục dành cho người lớn) đều được đem ra thử. Khi tư thế không đúng tiểu quận chúa bị đau là mếu máu khóc, nhưng khi Dương Thu Trì dụ dụ, sờ sờ là nhanh chóng cười hì hì tiếp tục.

    Và thế là ban đêm khuê phòng khoái lạc phừng phừng, ban ngày thì Dương Thu Trì bận rộn bù đầu, vừa chế tạo thuốc nổ và đạn, vừa thị sát tình hình kiến thiết quân doanh và mộ binh.

    Công tác chiêu mộ binh lính tiến hành rất thuận lợi. Bá tánh bị nạn đói không có gì sống, hiện giờ hắn chiêu binh đảm bảo có gạo trắng ăn lại mỗi tháng còn có 300 văn tiền lương, đúng là miếng bánh từ trên trời rơi xuống. Không chờ bộ đầu Ngụy Trì dẫn các thư lại đi động viên, tin tức đã truyền khắp nơi, thanh niên trai tráng khắp các làng xóm ùa nhau kéo đến, không ít lão đầu đã cố sức làm cho trẻ hơn, báo tuổi giả để được chọn. Thậm chí có những nữ tử giả làm nam đến ứng chinh, chẳng qua là để có cái ăn mà thôi.

    Do người tư các làng xóm châu huyện phụ cần hay tin đến xin tòng quân quá đông, còn quân lương chỉ đủ một vạn người ăn một tháng, có chiêu binh nhiều đi nữa cũng không đủ ăn. Hơn nữa, hắn chiêu binh mãi mã để đánh nhau, chứ không phải tu công tích đức cứu tế bần dân, nên những người ốm yếu, đói kém, không có khả năng bị loại với tỷ lệ rất cao.

    Quân đội cổ đại tác chiến quan trọng nhất là điều kiện thân thể của binh sĩ: day sức, mạnh mẽ là điều kiện cơ sở. Dương Thu Trì căn cứ tình huống xác định điều kiện tuyển chọn, trước hết tiến hành chọn tuổi và giới, phụ nữ trẻ tuổi khỏe mạnh chỉ giữ lại trăm người làm cứu hộ viên và thu dọn vệ sinh chiến trường. Còn đối với binh sĩ, hắn tổ chức tiến hành thi mang váv 10 kg chạy việt dã và nâng tạ. Những ai vượt qua thì quá quan, ai bị đào thải thì cấp cho 50 văn làm lộ phí trở về quê.

    Kinh qua tuyển chọn nghiêm cách, chỉ có 5 nghìn người đạt chỉ tiêu, trong đó bao quát hơn 1000 Đồng binh còn lại của A Hạnh Ny. Lại thêm mấy ngày nữa, người thông qua càng lúc càng ít. Trong vòng mười ngày, tổng cộng chỉ thu được 8 nghìn tân binh có điều kiện thân thể đạt yêu cầu.

    Điều này cũng khó trách. Vào thời Minh mạt chinh chiến liên miên, đại bộ phận thanh niên khỏe mạnh đều bị chinh triệu nhập ngũ, phần lớn chết ở chiến trường, còn lại phần lớn là già cả bệnh tật. Rất may ở đây là Tương Tây xa xôi, tình huống đỡ hơn, trong vòng 10 ngày ngắn ngủi mà có thể triệu tập được bấy nhiêu đó binh sĩ hợp thể cách là may lắm rồi. Rất may là nhờ cơm gạo quân hướng cộng uy danh của hai vợ chồng Dương Thu Trì, nên độ thu hút mới khả quan như vậy.

    Trong mười ngày này, Dương Thu Trì chế tạo được khoảng 7 nghìn viên đạn và hơn trăm đầu đạn pháo. Đương nhiên, nghiêm cách mà nói thì đây là thành quả tập thể. Một trăm thiết tượng tạo vỏ đạn, đầu đạn và bao ngòi nổ, ngoài ra còn luyện ra nguyên liệu thuốc súng và thuốc dẫn hỏa. Dương Thu Trì chỉ phụ trách phối hợp nhưng nguyên liệu này thành thuốc nổ không khói và thuốc mồi làm ngòi nổ, sau đó cho 50 hộ vệ của mình tiến hành nhồi thuốc, rồi bỏ vào trong các hộp đạn 5 viên của súng bộ binh lão sáo đồng. Chế tạo pháo đạn bằng đá cũng vậy. Dương Thu Trì chỉ phụ trách chế tạo thuốc nổ, nguyên liệu và việc ngồi thuốc nổ vào thì để người khác hoàn thành. Những công tác này chia hai ca, ngày đêm làm không nghỉ.

    Súng máy maxim đã qua kiểm nghiệm thực chiến, chứng minh hợp cách. Trong mười ngày này lão hắc đầu lại tạo ra một cây nữa, còn súng bộ binh lão sáo đồng thì kết cấu đơn giản, sán xuất được mấy chục cây sau 10 ngày.

    Nhưng mà, Dương Thu Trì không biện pháp gì trang bị hết lão sáo đồng cho tám nghìn quân mới triệu tập này, càng không thể sản sinh nhiều súng máy maxim cho quân đội - nguyên nhân bó buộc chủ yếu cho việc tổ kiến quân đội đại quy mô này chính là đạn dược. Do hắn cần bảo mật kỹ thuật, những chi tiết quan trọng chỉ có thể hoàn thành một mình, nên tốc độ chế tạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

    Như thế tính ra, mỗi chiếc súng máy cần dùng 5 nghìn viên đạn. Nguyên định tạo 3 cây, đạn cần dùng 1 vạn 5000 viên. Súng bộ binh mỗi cây phát 20 phát đạn, một nghìn cây 2 vạn viên đạn.

    Tổng cộng hắn phải làm 3 vạn 5 nghìn viên! Mỗi ngày chế tạo 500 viên, vậy cần hơn hai tháng. Như vậy nói, bản thân hắn ban ngày đừng làm gì cả, chỉ dành trọng thời gian ba tháng mới trang bị cho một trường chiến đấu quy mô nhỏ dưới 5 vạn người!
     
  14. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 134: Luyện Binh
    Dương Thu Trì không muốn để bản thân mệt chết. Xem ra dựa vào thuốc súng và đạn do một người tạo ra mà đi cứu cả giang sơn Đại Minh là không thể, do đó hắn chỉ có thể tận lực mà thôi.

    Do hạn chế về đạn dược, hắn quyết định khống chế quân tinh nhuệ trong vòng một nghìn người. Do súng bộ binh và súng máy có ưu thế lớn nhất là về tầm bắn, hắn quyết định đem 1 nghìn người này tổ kiến thành kỵ binh, có thể nhanh chóng xung phong truy kích, cũng có thể triệt thối cực nhanh. Hắn muốn họ luôn bảo trì khoảng cách trong tầm bắn của bên nhà nhưng ngoài tầm bắn của đối phương, như vậy họ có thể đánh địch mà địch không thể đánh họ, tiến hành chiến tranh không cân xứng.

    Cánh quân này được phối bị súng có lưỡi lê ba cạnh, binh sĩ và chiến mã đều không mặc khải giáp, để đảm bảo tốc độ tiến thôi, cũng lợi cho di chuyển xa. 28 khẩu hồng di đại pháo được tổ thành pháo đoàn, pháo thủ không trang bị vũ khí gì, do bản thân hắn theo túng súng máy maxim làm hỏa lực bảo hộ, hai cây súng máy còn lại được dùng làm dự bị.

    Bảy nghìn tân quân còn lại án chiếu theo phối chế của quân đội Đại Minh mà trang bị, chủ yếu người mặc khải giáp nhẹ, tay mang thuẫn bài và đao, cộng thêm cung nỏ thủ và trường thương đội. Họ phối hợp ngắn dài, tương hỗ bảo vệ cho nhau. Do có đội súng lão sáo đồng, đội hỏa súng bị trực tiếp đào thải.

    Chiến đấu sẽ cố gắng tiến hành ở bình nguyên hoặc địa hình rộng rãi. Phương án tác chiến là: trước hết do hồng di đại phảo bắn ba bốn nghìn mét dùng đạn phổ thông và đạn thật tâm oanh kích xa, chờ định quân tiến gần 1000 mét dùng Phất Lảng Cơ phát xạ, sử dụng đạn đá chứa thuốc nổ mới. Khi địch quân xông tới 400 mét lọt vào tầm bắn, bộ binh nổ súng xạ kích. Nếu như số lượng địch quá nhiều, thì thượng tướng mang súng máy là hắn sẽ xuất trận, căn cứ số lượng địch quân mà có tăng thêm số súng hay không. Khi đội hình xung phong của địch quân bị đả kích trí mệnh, quân đội phổ thông sẽ ra tay thu thập tàn cục.

    Đương nhiên, đây là phương thức tác chiến lý tuởng. Chiến trường thiên biến vạn hóa, địch quân là kẻ có đầu óc, nên cần phải căn cứ tình huống tác chiến cụ thể mà điều chỉnh phương án tác chiến.

    Khi thành lập quân đội, vấn đề đầu tiên là có cơ cấu tổ chức thế nào. Hắn quyết định sử dụng quy tắc tam tam chế của quân đội Trung Quốc hiện đại, gồm quân, sư, lữ, đoàn, doanh, liên, bài, ban mà lập: 10 người một ban, 3 ban 1 bài, 3 bài 1 liên, cứ thế lấy 3 mà tiến. Mỗi đợn vị thiết đặt 1 chức chánh hai chức danh phó, toàn sư cộng 7290 người, còn lại dùng làm pháo binh và hậu cần binh.

    Do danh xưng đoàn trưởng, liên trưởng người cổ không quen, Dương Thu Trì dùng quân chức tương ứng của cổ đại để thay vào, Ban trưởng thành Thập trưởng, Bài trưởng thành Đội trưởng, Liên trưởng thành Tiếu quan, Doanh trưởng thành Tuần kiểm, Đoàn trưởng thánh Bá tổng, Lữ trưởng thành Thiên tổng, Sư trưởng thành Thủ bị. Tân quân hiện giờ vừa khéo thành một sư, cho nên hợp với hắn là thủ bị.

    Án chiếu địa vực và thôn trại phạm vi đại khái xác định binh sĩ thuộc liên đội nào xong, quân quan dưới doanh do bọn họ tự để cử ra những người biết võ biến bắn cộng phẩm chất đạo đức và uy vọng cao ra đảm nhiệm. Quan từ cấp đoàn trở lệ do Dương Thu Trì tự chọn từ những người bên mình ra tiến hành thị tuyển .

    Phương pháp thi tuyển rất giản đơn: chiếu theo võ khoa của Minh triều ra khảo, bao gồm cung mã kỵ xạ, án thành tích xác định quan chức. Sau đó, hắn ở trước mặt toàn sư, thụ hàm cho từng người một, ban phát tiền thưởng. Mỗi lần phát lương, hắn tự tiến hành tổ chức, cho phát đến tám trăm ban trưởng, để họ tự phát lại cho binh sĩ dưới quyền. Hắn còn quy định rõ, ai cố tình khấu trừ lương lính, không những bị triệt chức, mà còn đánh 100 quân côn trước mặt mọi người, giam cấm một tháng.

    Những nghi thức này có ý nghĩa rất trọng yếu, nhờ đó hắn cấp cho tướng sĩ toàn quân một khái niệm: rằng đây là một quân đội kỷ luật của riêng hắn, mọi quân sĩ đều phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của hắn, hắn là quan chỉ huy tối cao.

    Để đạt mục đích này, hắn tiến hành giáo dục tư tưởng liên quan đối với cấp đoàn trở lên, một mặt tự thân thao luyện truyền đạt kiến thức đội ngũ và kỹ luật quân đội, một mặt triển khai hội nghị tiến hành huấn thoại, nhanh chóng nắm bắt tính cách các quân quan, biết tài năng và thói tật của họ. Hắn cũng nghiêm cách thực hiện chế độ có thể thăng - hạ cấp, bỏ quan cấp suốt đời, kịp thời đề bạt người tài, phát hiện người không phục tùng hoặc không thích hợp thì triệt hoán ngay.

    Để tránh khi khoách quân hỗn chiến cơ cấu bị loạn chỉ huy không linh, rồi mạnh ai nấy đánh giảm lực chiến đấu, hắn quyết định án chiếu theo tiêu chuẩn quân đội hiện đại lập và sử dụng quân hàm, đeo ở vai quân hàm giáo, úy... Hạ cấp gặp thương cấp phải chào, khi chiến đấu mỗi khi cơ cấu bị loạn, người quân hàm cao sẽ chỉ huy quân hàm thấp, để đảm bảo tác chiến theo đoàn đội. Kẻ nào không phục tùng, có thể xử tội ngay lập tức.

    Do người cổ không quen dùng quân hàm, hắn cho người chế tác những hình vẽ, treo ở khắp quân doanh để quân sĩ nhanh chóng quen thuộc.

    Quân đội cần phải thống nhất chế phục, hắn bỏ đi những dạng quân phục rắc rối của cổ đại, trực tiếp dùng đồ ngụy trang để làm quân phục, khi tác chiến mặc khải giáp nhẹ. Hắn lập tức mở kho bạc ra sử dụng vào việc này, và do phương thức in ấn ở

    Minh triều khá phát đạt, vải bố có thể đi mua ở châu huyện gần, nên tiến độ khá nhanh.

    Có quân đội, dĩ nhiên phải xác định quân kỳ, quân ca và quân kỷ, vì nó đặc trưng cho quân đội, tăng cường vinh dự tập thể và lực ngưng tụ, cổ vũ sĩ khí.

    Về quân kỳ, hắn nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn không bỏ được cái lá cờ đỏ như máu đó, quyết định lấy màu đỏ làm nền, ở giữa thêu vòng lúa mạch tượng trưng cho nông dân lao khổ đời Minh (dĩ nhiên là bỏ dấu hiệu tượng trưng cho công nhân, vì lúc đó Minh triều chưa có nhiều công nhân đủ để hình thành giai cấp này), giữa vòng lúa mạnh lại thêu chữ Minh lớn. Hắn cũng có nghĩ tới chữ Dương, nhưng mà quá theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, không có ý nghĩa chiến lược. Về quân ca thì hắn chọn đại bài quân ca trong chiến tranh chống Nhật, vì nó hào hùng và hơi... tuyệt vọng, như tình cảnh hiện giờ của Đại Minh. Ca từ được hắn cải sửa lại như sau:

    "Đại đao chém xuống đầu địch

    Hỡi chiến sĩ vũ trang toàn quốc

    Ngày kháng chiến đã đến rồi!

    Phía trước có quân nghĩa dũng của chúng ta, phía sau có bá tánh toàn quốc.

    Quân Đại Minh dũng cảm tiền tiến, nhắm thẳng địch quân, tiêu diệt chúng, tiêu diệt chúng,

    Tiến lên, cùng tiến lên, rút đao và gươm ra mà... chém!

    Giết...!"

    Một chi quân đội trừ có kỷ luật sắt, cần phải có quan hệ tốt với dân chúng. Quân đội có dân ủng hộ, giống như chiếc xe một bánh được vạn người đẩy. Trong thời Minh mạt đầy chiến loạn, điểm này trọng yếu phi thường.

    Muốn tăng cường quân kỹ, hắn tổng kết những quy tắc kỷ luật chiến tranh hiện đại, tuy thấy chuyện "không cho phép ngược đãi tù binh" không phù hợp với cổ đại lắm, nhưng có thể phân hóa làm tan rã đấu chí địch nhân, nên áp dụng luôn.

    Và thế là, hắn áp dụng "Ba đại kỷ luật tám hạng chú ý" của quân đội Trung Quốc làm quân kỷ, dạy cho quân quan từ đoàn trở lên, giao cho họ dạy cho tướng sĩ cấp dưới, đòi hỏi là ai ai cũng phải thuộc lòng đọc ra được, đọc không thuộc thì đánh đít, cổ vũ tướng sĩ vạch mặt tố cáo người vi phạm, một khi tra thật sẽ trị tội theo quân pháp.

    Một chi quân đối có lực chiến đấu thế nào quyết định từ công tác huấn luyện. Nhưng huấn luyện thế nào hắn không rành, chưa kể là có tới 8 nghìn quân, trong khi công tác chủ yếu của hắn là chế tạo đạn dược. Do đó, hắn quyết định huấn luyện quan quân trước, sau đó để họ tự luyện binh.

    Và thế là, hắn tập trung quan quân từ bá tổng trở lên, đem nội dung được tập huấn về quân sự ở đại học ra chỉ, chủ yếu là các nguyên tắc cơ bản, tính kỹ luật, cường hóa thể lực, và phục tùng mệnh lệnh. Những cái khác cứ áp dụng kiến thức quân đội thời cổ vào.

    Ngoài ra, hắn nhờ Liễu Nhược Băng giúp chép lại cách sử dụng thương pháp bằng lưỡi lê của lão sáo đồng và đao pháp kết hợp thuẫn bài của nàng ra, hắn học xong rồi tự thân đi dạy các quân quan để họ tự dạy cho các tướng sĩ cấp dưới. Hai loại thương pháp và thuẫn bài đao pháp này đơn giản nhưng được Liễu Nhược Băng căn cứ thực chiến tổng kết ra các chiêu công kích và phòng ngự hữu hiệu nhất, cho nên các tướng sĩ học xong sau này sử dụng rất hiệu quả, càng tăng sự kính úy đối với hai vợ chồng Dương Thu Trì hơn.

    Do đạn rất quý hiếm, việc huấn luyện bắn súng chỉ áp dụng đạn thật 5 viên, để quân sĩ thể nghiệm cảm giác súng đạn hiện đại, còn huấn luyện thường đều sử dụng súng toại phát thay thế.

    Việc huấn luyện ngựa cũng rất trọng yếu, bỡi chiến mã cần phải làm quen với tiếng súng và tiếng pháo nổ to hơn, để chúng không kinh hãi khi xuất chiến.

    Tất cả công tác này đương nhiên không thể hoàn thành trong thời gian ngắn ngủi mười mấy ngày, hắn chỉ tạo lập cơ sở ban đầu, hi vọng sau thời gian tồn tại kéo dài, quân đội sẽ tự trưởng thành. Ngoài chuyện bận túi bụi lo chế đạn pháo, hắn còn phải giám đốc xây dựng binh doanh, tuyển chọn quân quan, sắp xếp công tác tình báo.... Nói chung đầu tắc mặt tối. Rất may là hắn biết chọn người tài giao việc, cho nên tình hình cũng ổn định dần.

    Ngày ấy, Dương Thu Trì đang bận rộn với binh doanh đã sơ bộ hình thành, thì hộ vệ Lưu Dũng vội chạy vào báo, nói rằng thám mã đã thám thính được quân tình khẩn cấp.
     
  15. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 135: Trọng Binh Áp Cảnh
    Dương Thu Trì vội cho thám mã đến hồi báo. Thám mã quỳ một chân ôm quyền thưa: "Thủ bị đại nhân, mật thám ở Bảo Khánh đưa quân tình khẩn cấp đến!" Nói xong móc tín hàm hỏa tốc dâng lên hai tay.

    Minh quân rất coi trọng dọ thám quân tình, tuy đã bị đánh bật khỏi Hành châu, Bảo Khánh, Minh quân vẫn còn lưu thám tử ở lại dò xét, báo cáo kịp thời.

    Dương Thu Trì tiếp lấy tín hàm, ra lệnh thưởng cho thám mã, bảo hắn ra ngoài chờ, sau đó mới dùng đao nhỏ rọc ra, vừa xem đã nhíu mày.

    A Hạnh Ny nhất mực cùng Dương Thu Trì đi thị sát huấn luyện tân quân và công tác xây dựng quân doanh, thấy tình cảnh này liền hỏi: "Thế nào hả, Thu Trì ca?"

    "Trương tặc quân phát binh tám vạn từ Bảo Khánh phủ, do đại tướng của Trương Hiến Trung là Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc soái lĩnh bức thẳng Kiềm Dương, mồng sáu tháng 9 xuất phát, chiếu theo lộ trình mà tính, nếu đi nhanh thì còn cách Kiềm Dương ba bốn ngày đường nữa."

    A Hạnh Ny cả kinh: "Tám vạn? Lần trước ba vạn..."

    "Đúng a! Tăng binh gấp hai lần rưỡi, xem ra là Trương tặc quân có chuẩn bị mà đến, chúng ta cần phải thận trọng ứng đối."

    Hắn trầm ngâm một lúc, bảo A Hạnh Ny tiếp túc thị sát huấn luyện tân quân, còn bản thân thì đi tìm du kích tướng quân Long Bỉnh, cho y xem mật báo quân tình, lại trở về nha môn, đi thẳng vào nội trạch thông báo với ba vị vương gia và tổng binh.

    Sau khi chờ một lúc, Quế vương cùng các vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý hoảng hốt từ hậu đường đi ra, Quế vương ho liên tục, hỏi: "Dương đại nhân, thế nào rồi?"

    Dương Thu Trì vội đem mật báo quân tình trình lên.

    Quế vương không chờ xem xong đã người run bần bật, đưa luôn mật báo cho Huệ vương và mấy người cùng xem.

    Bốn người xem xong, đều kinh khủng vô cùng. Quế vương vịn tay ghế ngồi xuống, sau đó mới bảo mọi người ngồi nói chuyện. Ông ta hỏi: "Dương đại nhân, Long tướng quân, Khổng tổng binh, lần này chiêu binh chỉ có 8 nghìn người, ba vị đại nhân, thế này... thế này thì làm thế nào ứng đối đây?"

    Tổng binh Khổng Hi Quý tuy có điểm vui mừng trên nỗi đau của kè khác, nhưng đại quân áp cảnh, ổ sắp lật nhào, làm gì còn chuyện giữ được trứng riêng? Do đó ông ta cũng thập phần khẩn trương, nói: "Chỉ bằng Kiềm Dương huyện nhỏ nhoi, lại không phải là trọng địa chiến lược, án theo lý Trương tặc quân sẽ không quá để ý với huyện này. Cho dù là lần trước bị tổn hại nặng, nhưng Trương tặc quân giọi về thanh đông kích tây, về chuyện mất hay được một thành này thường không quan tâm mấy. Lần này đại cử tiến binh, lại chỉ định hai viên đại tướng là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc soái lĩnh đến chinh phạt, thế trện này e rằng không lấy Kiềm Dương không chịu về. Chẳng lẽ lần này là báo cừu của lần trước sao?"

    Long Bỉnh lắc đầu: "Theo ti chức biết, thì Trương tặc quân đặc biệt thích vàng bạc. Thu bao nhiêu tài bảo cũng cảm thấy không đủ. Trương tặc quân phái hai viên đại tướng đắc lực nhất là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc tăng binh tám vạn đến, lần này chính là ý của người say không ở rượu, xem ra là thèm thuồng tài sản kếch sù của ba vị vương gia, muốn cướp đó mà."

    Khi nghe lời này, ba vị vương gia đều sợ đến mặt cắt không còn giọt máu, thật là có cảm giác "Thất phu vô tội, mang ngọc có tôi".

    Dương Thu Trì không hiểu lịch sử nhiều, đặc biệt là tình huống quân đội của Trương Hiến Trung thời Minh mạt càng không quen, chỉ biết có một Trương Hiến Trung dấy binh giết người ở Tứ Xuyên rất nhiều, những kẻ khác đều không biết, nên hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, phen này lĩnh binh Trương tặc quân đến đánh là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc, hai người này thế nào?"

    Long Bỉnh trầm giọng đáp: 'Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc theo Trương Hiến Trung chinh chiến nhiều năm, là tướng tâm phúc của Trương tặc, cùng Lưu Văn Tú, Ngải Năng Kỳ được Trương tặc thu làm nghĩa tử. Trương tặc xưng vương ở Vũ Xương xong, phân biệt sắc phong cho bốn người này làm tướng quân, xưng là 'Tứ tướng quân', Tôn Khả Vọng là Bình Đông Tướng Quân, Lý Định Quốc là An Tây Tướng Quân. Hai người này tác chiến dũng mãnh, Tôn Khả Vọng do phòng thủ ngoan cường nên có ngoại hiệu Nhất Đổ Tường, Lý Định Quốc không những kiêu dũng thiện chiến, lại rành binh pháp, văn võ song toàn, nên được tặng ngoại hiệu Tiểu Úy Trì. Hai người này là tướng đắc lực nhất của Trương tặc.

    Dương Thu Trì gật đầu, thầm tính toán trong lòng, có câu võ công có cao mấy thì cũng sợ đao chặt cũi khi mình trần! Bất quản hai người chúng là nhất đổ tường hai nhị đổ tưởng, tiểu úy trì hay là đại trì úy, chỉ cần tạc đạn nổ, súng máy gầm, thì tất tần tật biến thành tường đổ hết.

    Nhưng mà địch quân chỉ còn hơn ba bốn ngày đường nữa, còn bản thân hắn chỉ mới tạo ra tám nghìn viên đạn và trăm phát tạc đạn, cho dù như lần trước một phát đạn tiêu diệt một địch nhân, vậy chỉ giết chết 8 nghìn người. Một trăm tạc đạn giỏi lắm là giết hai nghìn người nữa, vậy giỏi lắm là diệt 1 vạn quân địch, còn bảy vạn nữa làm sao đây?

    Tám nghìn người đối với 7 vạn người, con nít cũng biết kết quả thế nào. Huống chi 8 nghìn quân này là do hắn mới thành lập, huấn luyện chỉ mười mấy ngày, đại bộ phận là tuyển ra từ đám dân gầy yếu đói kém, nên ngoại trừ 1 nghìn đồng binh, cơ bản họ chẳng có lực chiến đấu bao nhiêu. Trong khi đó, Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc theo Trương Hiến Trung nam chinh bắc chiến, tám vạn quân dưới trướng đã cửu kinh sa trường, dùng rắn chống rắn e rằng bên hắn lành ít dữ nhiều.

    Làm sao bây giờ?

    Ba vị vương gia, tổng binh và Long Bỉnh đều biết muốn dùng tám nghìn người mà đánh thắng tám vạn địch quân thì chỉ có dựa vào Dương Thu Trì lần nữa đại triển thần uy. Do đó, khi thấy hắn trầm ngâm suy nghĩ, đều dõi mắt ngóng chờ, không ai dám lên tiếng.

    DƯơng Thu Trì cúi đầu suy nghĩ một lúc, ngẩn lên thấy vẻ mặt họ như vậy, tủm tỉm cười: "Sách lược lui địch thì có, chỉ có điều ba vị vương gia, tổng binh đại nhân, Long tướng quân - lần tác chiến này phải do ta toàn quyền chỉ huy, đều phải nghe ta điều khiển an bài. Thế nào?"

    Năm ngươi đưa mắt nhìn nhau, đều lần lượt gật đầu.

    -------

    Phía tây bắc Kiềm Dương có Nham Lũng sơn, là một tòa núi đá nham thạch, là đường phải đi qua khi tiến vào Kiềm Dương. Thế núi này tuy không cao, nhưng vô cùng nhỏ hẹp. Giữa hai núi có một con sông nhỏ, hình thành thế hai núi giáp sông, địa hình hiểm trở. Nước sông khá cạn, đặc biệt là mùa hè, nhưng khi mưa to thì nước lên rất nhanh.

    Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc dừng ngựa ở cửa núi. Phen này, Trương Hiến Trung nhậm mệnh Tôn Khả Vong làm Tây chinh tổng binh, Lý Định Quốc làm phó tướng. Nhận được chỉ lệnh khẩn cấp của Trương Hiến Trung, hai người điều tập tinh nhuệ, gấp rút hành quân mấy ngày thì đến đây. Đến trước cửa núi này, thái dương đã xuống núi, ánh sáng vàng chói chiếu đầy trời không.

    Tôn Khả Vọng ngẩn đầu nhìn trời chiều, nói với Lý Định Quốc: "Nhị đệ, qua Nham Lũng sơn này là Kiềm Dương rồi. Theo báo cáo thì phía tây Kiềm Dương là dãy đất bằng phẳng. Trời sắp tối rồi, chúng ta hãy nhanh vượt qua núi này, hạ trại bền lòng chảo cạnh sống phía bên kia, sáng ngày mai công thành."

    Lý Định Quốc nhìn Nham Lũng sơn hiểm trở và dòng sông cạn, nhíu mày: "Đại ca, sơn cốc này địa thế hiểm yếu, đường núi nhỏ hẹp, rất khó qua nhanh, hiện giờ trời đã tối, nếu cường hành đi qua, một khi gặp phục binh, e rằng...."

    Tôn Khả Vọng cười hăng hắc: "Nhị đệ quá lo rồi, sợ vũ khí quái thú gì đó rồi chứ gì? Theo ngu huynh thấy, đó chính là bọn bại quân chi tướng làm già nói khoác thế thôi, không cần phải lo."

    "Đại ca nói lời này chưa phải, theo ngu đệ tra hỏi qua nhiều huynh đệ chiến bại lần trước trở về, đều nói vũ khí quái thú của địch quân thập phần khủng bố, phun ra tiểu thú có thể thương hại ngoài ba nghìn xích. Còn nữa, đạn khai hoa của địch quân có uy lực kinh người. Một quả nổ ra, người ở xung quanh 50 xích đều thây cốt vô tồn, có thể sát thương đến ngoài 1 trăm xích, quả là chưa từng nghe bao giờ. Nếu như một hai người nói thì cho rằng kinh khủng vọng ngôn, đằng này mấy chục người đều nói thế, như vậy là không thể không cảnh giác rồi."

    "Hắc hắc hắc..." Tôn Khả Vọng cười khan mấy tiếng, "Ý tứ của nhị đệ là địch quân quá mạnh, chúng ta cần phải bảo mệnh quan trọng hơn, lui binh là trên hết?"

    Lý Định Quốc trầm mặt: "Đại ca nói chơi rồi, ý tứ của ngu đệ chỉ là đề tỉnh đại ca, trận chiến này phụ vương nhìn rất trọng, mục đích có ba thứ, một là cướp hết tài bảo của ba phiên vương Minh triều này, hai là giết bạch y nữ sát đó, ba và trọng yếu nhất là yêu cầu hai chúng ta tham tra cho rõ vũ khí quái thú và đạn khai hoa đó hư thật thế nào. Nếu như đích xác có chuyện này, có thể cướp được hai bảo bối đó, Đại tây quân chúng ta có thể nói là chiến vô bất thắng rồi!"

    "Lời phụ vương ta nhớ rõ, cái này không cần nhị đệ nhắc." Tôn Khả Vong nhạt giọng nói, quất roi ngựa về phía trước, "Ngu huynh không phải là người lỗ mãng, lần này xuất chinh đã tra hỏi kỹ về vũ khí yêu quái và khai hoa đạn gì đó, đã nghĩ ra đối sách ổn thõa. Quái thú vũ khí đó phóng ra tiểu thủ đều bay ngang, không cong vẹo vòng vo, cũng không chụp từ trên xuống. Còn khai hoa đạn đó sau khi nổ thì bung ra những đạn phiến nằm ngang, sát thương người chủ yếu là do thứ này. Do đó, ngồi nằm xuống tránh đi là biện pháp đơn giản hữu hiệu nhất. Trước khi đến đây, ta đã cho tướng sĩ diễn luyện nằm bò rồi, thế nào, nhị đệ không nghĩ ra phải không?"

    Lý Định Quốc cũng cười: 'Đệ đương nhiên đã chuẩn bị rồi, ngoài ra còn có Phấn Ôn Xa (loại xe tránh tên đạn) cải tạo, đệ thấy trong quân của đại ca cũng có không ít, quả thật là ý tưởng lớn gặp nhau a! Ha ha ..."

    Phấn Ôn xa là loại dụng cụ để yểm hộ quân tiến công áp sát tường thành trong các trận công thành chiến thời cổ đại (xem hình). Kỳ thật đó là một phòng nhỏ di động, có thể chống đỡ tên đá bắn ném từ trên xuống, phía dưới có bốn bánh xe. Trong chòi di động này có thể tránh được 10 người, đẩy tiến từ bên trong, khi gần đến thành trì thì dùng để đào địa đạo, phá tường thành của đối phương.

    Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc lần này mang loại xe đó tới chính là đối địch với súng máy và tạc đạn tân trang của Dương Thu Trì. Hai người cho gia công thêm, bên ngoài phủ phiến sắt rất dày và nặng, cộng thêm vải có trát bùn dày, cực kỳ giống với vỏ xe tăng.

    Tôn Khả Vọng vẫn cười nhạt y như cũ: "Nếu như đã chuẩn bị hết rồi, cần phải nhanh chóng thông qua vùng nguy hiểm này, tiến vào lòng chảo bằng phẳng, quyết chiến với địch! Chúng ta phải lấy thế lôi đình của thiên quân, trể để đạp bằng Kiềm Dương, đoạt hai bảo vật đó, chém nát bạch y nữ sát ra làm vạn đoạn!"

    [/QUOTE]
     
  16. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 136: Vượt Qua Hẻm Núi
    Lý Định Quốc vội nói: "Đại ca, không thể mạo hiểm tiến vào! Theo ý kiến của ngu đệ thì chúng ta nên lùi mười dặm hạ trại, chờ ngày mai phái tiền phong đi hai bên núi trước, tra rõ không có mai phục rồi qua cũng không muộn!"

    "Hắc hắc hắc, lùi 10 dặm hạ trại?" Tôn Khả Vọng cười lạnh mấy tiếng, "Nhị đệ gan nhỏ như vậy thật là uổng cho danh xưng Tiểu úy trì rồi!"

    Hai người này đều là nghĩa tử của Trương Hiến Trung, là hai viên đại tướng Trương Hiến Trung dựa vào nhiều nhất. Chỉ có điều tính cách không hợp nhau. Tôn KHả Vọng sinh tính đa nhi, tật đồ hiền tài, đối với chuyện Trương Hiến Trung thưởng thức Lý Định Quốc vô cùng bất mãn, trong khí đó Lý Định Quốc tính cách lại quật cường, không phục ai. Do đó hai người thường xuyên kình chống. Chỉ có điều, Lý Định Quốc dù gì cũng lấy đại cuộc làm trong, chỉ cần không sai phạm nguyên tắc thì phần lớn đều chủ động nhân nhượng, cho nên biểu hiện của hai người mới hài hòa vô sự như vậy.

    Trương Hiến Trung chỉ phái hai người lĩnh quân tám vạn đi chinh phạt Kiềm Dương có thể nói là dao mổ trâu đi cắt cổ gà, mục đích kỳ thật chẳng phải chỉ vì kim ngân tài bảo của ba vị vương gia, mà chủ yếu là binh sĩ trở về đều tuyên xưng địch quân có vũ khí quái vật uy lực cực lớn và khai hoa đạn loại mới, muốn đoạt được tiến hành nghiên cứu sử dụng.

    Một mục đích khác đương nhiên là Liễu Nhược Băng. Mười năm trước, Liễu Nhược Băng trong vai trò bạch y nữ sát đã phóng cho Trương Hiến Trung một phi tiêu suýt chết, phải điều dưỡng mấy năm mới khôi phục, cho nên y hận Liễu Nhược Băng thấu xương. Khi nghe Bạch y nữ sát xuất hiện lại ở Kiềm Dương, Trương Hiến Trung mới biết ở Vũ Xương Trầm Lỗi không giết chết được nàng, đột nhiên tức giận, đem Trầm Lỗi báo cáo thắng lợi láo mắng cho một phen, ra lệnh cho Tôn Khả Vong và Lý Định Quốc phen này chinh chiến nhất định phải giết bạch y nữ sát đi.

    Trương Hiến Trung đương nhiên biết hai người ở ngoài hợp bên trong ly, nhưng do hai người đều anh dũng thiện chiến, là hai viên đại tướng mà y ỷ trọng vào, cho nên Trương Hiến Trung không nguyện thấy hai người mâu thuẫn, nhất mực nghĩ biện pháp giảng hòa, tận khả năng tìm cơ hội cho hai người có dịp tiếp xúc với nhau. Trước đây y cũng đồng thời chỉ phái hai người mang binh xuất chinh, để hai người trong chiến đấu kết tình hữu nghị, không được kình chống nhau nữa. Lần này cũng vậy, y phái hai người họ đi là vì mục đích tăng sự hợp tác, và tăng khả năng cướp được bảo bối.

    Lý Định Quốc được tôn xưng là nho tướng, lòng tinh tế vô cùng, sau khi hiểu được ý của Trương Hiến Trung, trước khi xuất binh sao không nghĩ biện pháp ứng đối vẹn toàn được? Cho nên y đi hỏi kỹ tình huống của hai loại vũ khí kia, cũng nghĩ ra biện pháp nằm bò ẩn tránh để né đạn. Ngoài ra, y đem những chiếc "xe" dùng để công thành trước kia làm vật che chắn đạn, số lượng tới mấy trăm, chính là muốn nhanh chóng tiếp cận vũ khí quái thú, dùng chiến thuật biển người chém giết tới cướp lấy.

    Chỉ có điều, hai người chưa tiến đến được dưới Kiềm Dương huyện thành là đã vì chuyện ngay trong đêm đi qua luôn Nham Lũng sơn hạp cốc này mà va chạm lẫn nhau.

    Tôn Khả Vọng nổi danh vì gan dạ đảm lược, nghe Lý Định Quốc nói thế, trong lòng phiền muộn, lạnh lùng nói: "Phen này xuất binh, phụ vương chỉ định ta làm tổng binh, đệ là bộ tướng, vậy do ta quyết định, có hậu quả gì do ta đảm trách!"

    Lý Định Quốc lạnh lùng cười: "Nếu gặp phục binh bất lợi, làm mất uy danh của phụ vương, hỏng đại sự, e rằng đại ca lúc đó không thể gánh nổi đầu!" Tôn Khả Vọng rúng động trong lòng, ngẩng đầu nhìn sơn cốc nhỏ hẹp, trầm ngâm một chút, nói: "Được, nếu như nhị đệ lo hai bên núi có phục binh, vậy phái hai nhóm nhân mã treo lên núi hai bên đi trước tham tra, đại đội nhân mã của chúng ta tiến phát phía sau."

    Hai bộ tướng lĩnh mệnh, mang binh đốt đuốc một mặt qua sống, một mặt lên núi, phận biệt tham tra hai bên sơn cốc.

    Lý Định Quốc nói: "Đại ca, cách Kiềm Dương không còn xa nữa, chúng ta cần phân binh vu hồi bao vây thôi! Trước khi xuất phát, phụ vương đã dặn dò kỹ lưỡng hai chúng ta, lần này xuất binh khác trước đây, lấy tám vạn đại quân công đánh một huyện thành nhỏ, thắng lợi là không còn nghi ngờ, điều quan trọng là phải thực hiện ba mục tiêu. Thực hiện mục tiêu không được, dù có san bằng Kiềm Dương huyện, giết sạch thủ quân Minh triều cũng không thể coi là thắng lợi!"

    Tôn Khả Vọng trầm giọng hỏi: "Theo ý kiến của đệ thì phải làm như thế nào?"

    Lý Định Quốc đã nghĩ kỹ kế hoạch tác chiến, khẽ đáp: "Phân binh bốn đường, vu hồi bao bọc, hợp vây Kiềm Dương. Đệ đã điều tra qua, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, chính diện là vũng trũng bằng. Phía ba núi không có xây tường thành hay thành bảo, vu hồi đánh úp rất dễ. Do đó, chúng ta dùng chủ lực công chính diện, dụ cho chủ lực địch trung trung mặt này, sau đó đột nhiên từ hai cánh và phía sau phát động cường công, sau khi phá thành sẽ triển khai hỗn chiến, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch không có cách gì sử dụng, như cá nằm trong rọ, tha hồ bị ta bắt không thể thoát thân. Chỉ có như thế mới dùng thương vong ít nhất đoạt thắng lợi, đồng thời thực hiện ba mục tiêu của phụ vương giao cho. Nếu không, địch quân bỏ chạy, giữ rừng núi mệnh mông này biết phương nào mà tìm."

    Án chiếu theo thiết tưởng của Minh Thái tổ sau khi định quốc, mọi châu huyện trọng yếu đều án chiếu theo phương án kiến thiết định định sẵn mà làm, bao quát kiến trúc thành thị, đường lớn nhỏ, trong đó bao quát cả tường thành vâng vâng. Nếu như án chiếu theo quy hoạch, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, do đó phải lên núi mà tạo tường thành, hoặc phải tạo công sự phòng thành. Nhưng do Kiềm Dương huyện là huyện nhỏ xa xôi, lại không phải là trọng địa chiến lược gì, cả trăm năm nay chưa hề gặp chiến tranh gì lớn, do đó có thể xây thành tường bao quanh mặt trước đã hay lắm rồi. Núi cao xung quanh không có công sự xây dựng gì, nếu không thành tường dựa vào núi đó nhất định sẽ khiến cho đại quân tấn công của Trương Hiến Trung gặp không ít phiền phức.

    Tông Khả Vọng lạnh lùng cười: "Hắc hắc, binh phân bốn đường? Biện pháp hay a! Biện pháp hay! Nhưng mà lần trước binh đánh Kiềm Dương tựa hồ cũng binh phân tứ lộ mà, đúng rồi, còn lợi dụng hắc ám trước khi trời sáng nữa! Kết quả thì sao? Hắc hắc, binh lực phân tán, bị người ta đánh cho tơi bời khói lửa, ngay đầu của chủ soái cũng bị cắt mất. Nhị đệ định lặp lại lần trước sao?"

    Lý Định Quốc nhướn đôi mày rậm: "Ngu đệ cho rằng, lần trước phân binh vu hồi bao vậy, lợi dụng bóng tối trước khi trời sáng tấn công bốn mặt là hoàn toàn chính xác. Sự thật đã chứng minh là binh ta đã phá ba mặt mà vào thành. Sau đó binh bại không phải là nguyên cớ hợp vây, mà là vũ khí quái thú và đạn khai hoa của địch quân quá mạnh, lúc đó còn có bạch y nữ sát nữa. Các tướng sĩ lần đầu gặp phải vũ khí tập kích mãnh liệt như vậy, lại không biết cách ứng đối, dẫn tới bị địch làm loạn trận cước. Còn tướng soái trong cơn hoảng loạn không cắn răng cường công, lại khua chiêng thu binh, tiền hậu mâu thuẫn, dẫn tới binh sĩ cường công không biết làm thế nào hoảng loạn triệt thối. Rồi chủ tướng sau đó bị giết, quần long vô thủ, bấy giờ mới đại bại. Phen này quân ta đã có chuẩn bị, các tướng sĩ đều biết cách ứng đối thế nào, nhất định không lặp lại tình cảnh lần trước!"

    Lý Định Quốc phân tích như vậy kỳ thật là nhìn rõ cục diện lúc bấy giờ. Đừng nói chi đạn súng máy lúc đó của Dương Thu Trì đã tiêu hao gần hết, cho dù có đủ dùng, chỉ cần quân đánh vào thành càng lúc càng đông, cuối cùng vẫn có thể đánh chiếm được huyện thành Kiềm Dương. Dù gì thì phản kháng của dân chúng không được huấn luyện chẳng có mấy tác dụng với hàng vạn địch quân tinh nhuệ, trong khi đó Dương Thu Trì chỉ bằng một cây súng máy, một mình không thể đoạt lại Kiềm Dương huyện thành. Trương tặc quân bại chính là bại ở loạn thế trận, bị súng máy của Dương Thu Trì đánh cho hồn phi phách tán, chẳng còn đấu chí gì, chỉ muốn chạy trốn. Khi nghe chiêng thu quân, toàn quân đại loạn, quân đánh vào thành chỉ muốn chạy ra, chưa tiến vào thành thì theo mệnh lệnh triệt thối. Hai bên cùng rút, chủ soái chiến tử... cuối cùng đại bại.

    Tôn Khả Vọng nói: "Phân binh là đại kỵ của binh gia! Cô quân thâm nhập, chỉ huy không linh, một khi bị địch quân tập trung ưu thế binh lực kích phá từng cụm, e rằng không những không thắng mà còn bị bại! Do đó, phân binh là chuyện vạn bất đắc dĩ mới làm, không thể tùy tiện. Huống chi, vu hồi bao sao phí thời gian phí lực. Địch quân nếu muốn chạy, không chờ đệ bao vây đã có thể chạy trước rồi! Do đó, bao vây hay không chẳng phải là chuyện có thể diệt hết địch quân. Qua khỏi Nham Lũng sơn này, rồi phân binh trực tiếp bao vây thành trì chẳng phải là bớt sức bớt thời giờ, nhanh chóng lẹ làng hay sao? Nếu địch quân muốn chính diện quyết chiến thì càng tốt, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch quân ta đã có kế sách ứng đối, sợ chúng gì chứ!"

    Lý Định Quốc đáp: "Tuy nói là bớt thời giờ bớt lực, nhưng nếu như vậy thì địch quân sẽ biết thực lực của ta, không đạt được hiểu quả xuất kỳ bất ý nữa. Đệ đã tra hỏi kỹ tướng sĩ tham chiến lần trước, đoán uy lực của vũ khí quái thú này chỉ có hai: Một - có thể gây sát thương ngoài ba nghìn xích; Hai - địch quân tự cho là có vũ khí uy lực vô cùng này, nhất định sẽ thủ kín thành, hi vọng quân ta sẽ từ chính diện cường công đánh rát, có lợi cho vũ khí của chúng phát huy uy lực. Chúng ta chính diện cường công chẳng phải là trúng phải mong mỏi của chúng hay sao?"

    "Thì đã làm sao? Ta không tin là Kiềm Dương huyện nho nhỏ này có thể ngăn được một kích lôi đình của tám vạn quân ta?" Y ngước đầu nhìn, thấy quân thăm dò ở hai bên núi đã đi rất xa, vẫn bình an vô sự, trong khi đó mặt trời đã xuống núi, màu vàng của trời không đã biến thành xanh thẵm, sao trên trời đã lấp ló. Y quay đầu lai bảo: "Lý Chánh Lý tướng quân đâu?"

    Lý Chánh là một tham tướng dưới trướng Tôn Khả Vọng, đội khôi mặc giáp giục ngựa tới trước ôm quyền thưa: "Mạt tướng có mặt!"

    "Lệnh cho ngươi mang 5000 nhân mã làm tiên phong, tức khắc xuất phát, nhanh chóng thông qua Nham Lũng sơn hạp cốc (hẻm núi), bố phòng ở Bình Bá (vùng đất hiện giờ là một huyện ở An Huy Trung Quốc), chờ đợi đại quân đến đó hạ trại."

    "Tuân lệnh!" Lý Chánh mang quân tiên phong đốt đuốc theo sơn lộ tiến vào hạp cốc.

    Thấy đại bộ phận quân của Lý Chánh đã tiến vào trong cốc, Tôn Khả Vọng vụt roi ngựa, chỉ thẳng: "Chúng tướng quân, theo ta xuất phát!"

    "Đại ca!" Lý Định Quốc kêu lên, "Ngu đệ kiên trì sách lược vu hồi bao sao (vòng ra sau lưng vây chặn đánh), nếu như đại ca không sử dụng, ngu đệ chỉ đành tự chủ trương, soái bản bộ tự đi đánh!"

    Tôn Khả Vọng trầm mặt: "Ngươi dám không nghe lệnh của ta?"

    "Không hề, đại ca xin đừng quên, trước khi xuất chinh phụ vương có từng nói qua, nếu như huynh và đệ ý kiến bất nhất, đệ có thể tự tiện hành sự."
     
  17. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 137: Núi Đè
    Trương Hiến Trung hiểu rõ vô cùng về bản lĩnh của hai vị nghĩa tử này, đặc biệt là Lý Định Quốc là người biết rõ binh pháp, có dũng có mưu. Do đó, ông ta cấp cho y một thực quyền có thể soái lĩnh binh sĩ dưới quyền mình theo ý tưởng của y mà hành sự. Tuy dụng ý là tốt, là hi vọng có thể phát huy tính năng động chủ quan của Lý Định Quốc, nhưng cấp cho phó tướng đặc quyền không nghe theo chỉ huy của chủ tướng là điều cực kỳ nguy hiẻm. Rất may lần này họ có 8 vạn đại quân xuất chinh, trong khi đó đối thủ không đủ một vạn người, cho dù phân binh cũng không đến nỗi quá nguy hiểm. Trương Hiến Trung vì đạt mục đích, đã để cho Lý Định Quốc căn cứ theo suy nghĩ của y mà quyết định chiến lược thật ra cũng có suy xét đến tình huống này.

    Tôn Khả Vọng sắc mặt tái xám, cười hắc hắc lạnh lùng: "Vậy tốt thôi, nếu như là thế, người dẫn quân bản bộ đi vu hồi bao sao đi, ta dẫn quân ta chính diện cường công!" Nói xong giục ngựa đi trước tiến vào cốc.

    Lý Định Quốc tính cách quật cường, nhận định chuẩn sự tình rồi quyết không buông bỏ, lớn tiếng nói: "Đại ca, huynh tấn công chính diện, đệ soái lĩnh bản bộ vu hồi, từ ba mặt đánh vào thành trị xong huynh hãy phát cường công, tránh bị địch sấn cơ hội!"

    Tôn Khả Vọng ngầm cười lạnh, thầm nghĩ: ngươi vu hồi bao vây phí thời gian phí lực, lấy lời này chặn ta, không cho ta cường công trước, chờ ngươi đánh vào thành rồi mới cho ta động thủ hay sao? Ăn cơm nguội canh lạnh sao? Hắc hắc, muốn giàn công lao? Lòng của Tư Mã Chiêu ai ai cũng biết!

    Được! Chúng ta hãy coi ai giành được công đầu trước! Y chẳng thèm quay đầu lại đáp lời nào.

    Lý Chánh dẫn đội đi tiên phong đã dọc theo dịch đạo Nham Lũng sơn mà tiến. Vùng Tương Tây nhiều mưa, cộng thêm nhiều năm chiến loạn, dịch đạo nhiều năm chưa sửa sạng gì, cho nên lổ voi ổ gà dày đặc, rất khó tiến bước. Lúc này trời đã tối hẳn, nhưng mà vầng trăng trên trời cộng thêm nhiều sao sáng đã chiếu rọi ánh lên triền núi đen xì xì.

    Lý Chánh giơ cao ngọn đuốc, quay đầu nhìn triền núi và rừng rậm đen sì sì ở đối diện, lại ngẩng đầu nhìn vách đá cheo leo, lòng nghĩ sơn cố này thái quá nhỏ hẹp, nếu như địch quân đặt mai phục ở trên, đích xác là dễ thủ khó công. Rất may là đội trinh sát đã vượt qua triền núi phía trước, không phát hiện tung tích địch, nên y hơi an tâm.

    Nhìn triền núi lồi lõm chìa ra như ưng như gấu, thậm chí có chỗ như đàn bà chữa phình cái bụng bầu, y cảm thấy tất cả dường như đang giương ánh mắt lạnh lùng nhìn họ đi qua từ dưới chân.

    Đi được nửa thời thần, sơn cố phía trước từ từ trở nên rộng rãi, đường càng lúc càng thoãi càng rộng, y từ từ yên tâm hơn.

    Mượn ánh trăng, y quan sát lũng sông bằng phẳng xa xa ở bên dưới. Đột nhiên, "oành! oành! Oành!..." Phía sau truyền tới những tiếng nổ lớn như sấm gầm, chớp mắt, đất động núi rung!

    Chiến mã dưới khố Lý Chánh kinh hãi hí dài, dựng người đứng dậy. Do không kịp đề phòng, Lý CHáng bị ngựa hất văng, té mạnh xuống sơn đạo, đầu khôi bay mất, khải giáp toàn thân trở nên vô cùng nặng nề.

    "Oành oành oành!" Tiếng nổ cực lớn vang lên liên tục, toàn bộ vùng đất đá chấn động. Lý Chánh vội vã chuyển thân nhìn, - trời! Quả nhiên là núi sập đất nứt rồi hay sao?

    Con đường nhỏ hẹp trong hạp cốc mà y vừa đi qua lúc nãy, những vách đá nhô ra như ưng như gấu, nhưng bụng bà bầu hiện giờ không còn thấy đâu nữa. Chúng đã biến thành đá vụng bay khắp bầu trời, giống như vô số con dơi từ cõi u minh trở về, bay loạn trời đêm tìm đường bổ nhào tới tận giữa con sông bên dưới.

    Vô số binh sĩ, chiến mã trên dịch đạo đã bị vùi lấp dưới đá núi bị đổ sập. Tiếng nổ xen lẫn tiếng thét gào của binh sĩ vang vọng cả sơn cốc.

    Trên đỉnh đầu y có tiếng u u, không biết là cái gì. Nhưng binh sĩ tiền phong ngữa đầu quan sát, thấy có vô số hắc ảnh đang bay ùa tới đầu họ như dơi, chờ khi họ phản ứng được, biết đó là đá vụn thì đã có rất nhiêu binh sĩ gào thảm tử thương trong trận mưa đá này.

    "Phát sinh chuyện gì rồi?" Lý Chánh cảm thấy may mắn vì không bị đá rơi trúng. Y ôm đầu gian nan đứng dậy. Y không dám tin sơn cốc bình thản như vậy, không có mưa cũng không có gió, sao trên trời đang sáng bừng, trời đất đem đẽ vô cùng thế này sao núi đột nhiên nổ vỡ rồi đổ sụp chứ?

    Chính lúc y kinh khủng vạn phần thì....

    "Oành....!"

    Tiếng nổ lần này rất trầm nhưng liên tục, từ chậm rồi nhanh dần, cuối cùng càng lúc càng dữ dội.

    Mặt đất dưới chân bắt đầu rung lắc, trong tiếng ì ầm khủng khiếp, các binh sĩ trên dịch đạo không ngừng lắc lư đó căn bản không thể đứng vững, đua nhau té ngã. Một số chiến mã hí dài chạy loạn, giẫm đạp binh sĩ chạy loạn trên mặt đất, không ngừng rơi ra ngoài vách đá, rớt phịch xuống đám nham thạch bên dưới.

    Lý Chánh đứng vững lại. Y dù sao cũng là tướng quân thân kinh bách chiến, nên mượn trọng lực của khải giáp trên người ổn định lực, bảo trì sự cân bằng dù đất dưới chân rung lắc dữ dội. Do đó, ý nhìn thấy hết, thấy phía trên sơn nham vừa sụp đổ kia, từng khối núi to mấy chục trượng đó do đất đá ở dưới đã mất hết, nên dưới tác dụng của trọng lực đã đổ ụp xuống theo!

    Núi sụp!

    Toàn bộ tòa núi phía trên dịch đạo đã đổ sụp xuống dưới, tạo ra vô số tiếng chấn động điếc tai.

    Mấy nghìn tướng sĩ, chiến mã trên dịch đạo chớp mắt tiêu biến! Toàn bộ bị chôn vùi dưới triền núi đổ ụp này.

    Bụi bốc mù trời, phủ trùm cả sơn cốc. Ngay ánh trăng sao mông lung trên trời cũng bị che mất sau lớp bụi.

    Không nghe thấy tiếng kêu thảm nào, bỡi vì binh sĩ gào thảm đó đều bị chôn sống dưới lớp nham thạch. Còn quân tiên phong của Lý Chánh dù bị thương cũng không kêu la, bỡi vì tất cả bọn họ đều cả kinh ngơ ngẩn. Trong chớp mắt, chỉ trong chớp mắt, mấy nghìn tướng sĩ còn mạnh mẽ cầm đuốc tiến tới vừa rồi đã tiêu biến sạch, tiêu biến dưới lớp đất đá do núi lở!

    Hơn nửa ngọn núi đổ sụp đã điền đầy sơn cốc nhỏ hẹp.

    Lý Chánh không biết bản thân nên cười hạnh phúc vì may mắn thoát chết hay không, hay là khóc rống lên vì thảm kịch không biết vì sao mà phát sinh này.

    Chính vào lúc y không định ra được chủ ý, thì trên sườn núi đột nhiên vang lên tiếng hò hét, lóe lên vô số ngọn đuốc còn nhiều hơn sao trên trời. Tiếp theo đó, số đuốc này như có cánh, từ đỉnh đồi bay xuống, rơi cạnh thân họ, bốn phía lập tức sáng bừng.

    Y thầm kêu không xong. Đây là thủ pháp thường thấy nhất trong mai phục ban đêm: đem đuốc ném từ trên đỉnh núi xuống, chiếu sáng địch nhân, còn bản thân quân mai phục thì ẩn tàng trong hắc ám, dễ dàng tiến công.

    Không chờ y sắp xếp phòng ngự thì "vưu sưu vưu sưu....!"

    Bên tai y vang lên tiếng mũi tên xé gió.

    "A...!" Hiện giờ thì đã nghe được tiếng gào rú rồi, nhưng lần này là ở bên cạnh y. Tướng sĩ trên dịch đạo đã kinh hãi ngẩn người chưa hoàn hồn lại được, nên không kịp đề phòng, bị trận mưa tên tẩy rửa, vô số binh sĩ tinh anh đã ngã xuống trong trận mưa tên này.

    Lý Chánh cũng trúng mấy tên. Y còn chưa kịp rút trường kiếm ở eo, hô máy tiếng: "Huynh đệ, trên núi có địch quân, xông lên! Xông...."

    "Hưu....!" Một mũi điêu linh tiển phá không bay đến, trúng ngay trán của y.

    Lý Chánh trừng mắt cực to, ngã ngữa ra dịch đạo, tới chết mà y còn chưa hiểu vì sao trong đêm vắng yên lành ở hà cốc tại Nham Lũng Sơn này lại đột nhiên phát sinh vụ núi sập, và địch quân từ ở đâu mà chui ra.

    Quân tiên phong vượt qua vụ núi sập này chỉ được khoảng hai nghìn người, trong khi đó toàn bộ dịch đạo đã bị núi sập lấp hết, đường bị tắc rồi. Sau trận mưa tên bay ra từ hắc ám, phần lớn hai nghìn tướng sĩ này đã trở thành bia sống, chớp mắt đã tử thương quá nửa.

    Tiếp ngay sau đó, sườn đồi lại vang lên hiệu giác xung phong. Mấy nghìn quân từ triền đồi ùa xuống như mãnh hổ. Quân tiên phong tàn dư tuy đã cửu kinh sa trường, nhưng sau khi bị núi sập mất hết hồn vía, dù nhanh chóng thanh tỉnh lại tiến hành đề kháng ngoan cường, nhưng ít không thể địch nhiều, chẳng mấy chốc bị diệt sạch.

    Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng, A Hạnh Ny cùng mọi người đứng trên đỉnh đồi, nhìn quân chủ lực của địch ở xa xa hoảng loạn phóng hỏa súng và tên, đều nhìn nhau cười.

    Khi Dương Thu Trì đến Kiềm Dương nhậm chức, đã từng đi qua con đường này, biết là dịch đạo trong cốc dài hơn hai chục km, địa thế vô cùng hiểm yếu, đặc biệt là ở gần cửa ra có vô số sơn nham trăm mét, thuộc về loại đá xanh rất dễ vỡ sụp. Chỉ cần cho những nham thể bên dưới này nổ rụng hết, thì toàn bộ triền núi sẽ ụp xuống, hình thành vụ lở núi cực lớn.

    Và thế là hắn lập tức phái thạch tượng bắt đầu làm bộc phá, đục mấy chục lổ lớn, sau đó an bài bộc phá theo dọc vách đá này, rồi hắn tự thân nối dây dẫn hỏa kéo đi.

    Tuy những người qua lại thấy có thạch tượng đục lổ trên vách đá, nhưng không ai biết họ đang chuẩn bị cho nổ phá núi, vì thời đại này không ai biết đến loại thuốc nổ mới có thể phá vách đá trong khi thuốc nổ đen thì không.

    Sau khi sắp xếp xong, Dương Thu Trì cho chủ lực mai phục ở trên đồi gần cửa ra, chọn những binh sĩ lạnh lùng bình tĩnh hóa trang thành tiều phu mai phục ở giữa núi. Sau khi địch quân tiến vào gần hết, lập tức điểm hỏa rồi trèo ra sau núi rút đi.

    Hắn cố ý để cho hơn hai nghìn quân tiên phong của Trương Hiến Trung qua khỏi khu nổ, tập trung ưu thế binh lực đánh trận tiêu diệt. Lợi dụng địa hình và ưu thế nhân số, hắn đã diệt hai nghìn quân tiên phong. Nhưng do tân quân lần đầu tác chiến, không có kinh nghiệm, nên vẫn trả giá bằng thương vong mấy trăm người.

    Số quân do thám chỉ có mấy trăm, lại cứ men theo triền núi khó khăn tiến bước, nên chưa đụng được quân Đại Minh thì núi đã sập rồi. Quân Dương Thu Trì kéo đi hết, tổng cộng khoảng 8 nghìn người, trong đó một bộ phận dùng để đối phó với địch ở triền núi, nhưng không truy kích. Hơn nữa quân số của địch trên đó quá ít, tự động hoảng loạn rút ngay.

    Chủ lực của địch bị mấy trăm mét núi đổ xuống ngăn chặn, tất cả đều kinh hãi sững sờ vì tiếng động kinh hồn. Chờ Tôn Khả Vọng mãi lâu sau mới trấn tĩnh lại, xác định triền núi không thể đổ nữa, mới vượt quá đó đuổi theo, lúc ấy thì đại quân của Dương Thu Trì không còn thấy đâu nữa.

    Trận chiến này Tôn Khả Vọng mất sạch hai nghìn quân tiên phong, ba nghìn quân bị chôn sống vì núi sập, tổng cộng tổn thất năm nghìn người.
     
  18. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 138: Liệt Hoả Đồ Thành
    Do một lượng lớn đất đá trên núi sạt lở dẫn tới bít đường, mấy trăm chiếc xe tăng thổ tả Phấn Ôn xa cùng một lượng lương thảo và quân nhu lớn theo quân không thể nào cho vượt qua sơn thế mấy trăm mét như vậy được, đều bị chèn cứng phía sau. Do chỉ có một dịch đạo này tới Kiềm Dương, những con đường khác đều nhỏ hẹp, xe bánh lớn và lượng lương thực lớn không thể thông qua, cần phải đả thông dịch đạo này mới được. Tôn Khả Vọng thấy sơn cốc hiểm trợ, sợ lại có mai phục nữa, nên hạ lệnh lui binh, rời khỏi sơn cốc xong lui thêm mười dặm nữa mới hạ trại. Chờ trời sáng xong, y cho chiếm lĩnh hai bên sườn núi, sau đó cho khai dọn dịch đạo.

    Muốn khai mở lại dịch đạo bị sụp đổ mấy trăm mét này với nham thạch toàn lớn, phải phá ra rồi mới lăn đi, trong tình hình không có thuốc nổ và xe cơ giới loại lớn, hơn nữa sơn cốc nhỏ hẹp không thể thi công nhiều người, nên tốc độ khai phá nhanh nhất cũng phải gần cả tháng.

    Dương Thu Trì cần nhất chính là thời gian, cho nên đó là nguyên nhân chủ yếu hắn phá núi.

    Giữa đêm, đại quân của Tôn Khả Vọng mệt mỏi kinh hồn suốt cả ngày và nửa đêm, sau khi bố trí các trạm gác xong, cuối cùng y có thể tiến nhập vào giấc ngủ vùi.

    Đột nhiên, những tiếng "oành ... oành!" cực lớn lại nổ giữa không trung, tiếng gào thảm trong quân doanh vang lên không ngớt.

    Những tiếng nổ đó không mấy gấp rút, một lúc mới nổ một tiếng, mà mỗi khi nổ thì trong quân doanh đều gào thảm hàng loạt, vô số binh sĩ đầu phá huyết lưu, nằm gục xuống đất chết tốt.

    "Địch quâ bắn pháo rồi! Mau nằm phục xuống!" Quân doanh chỗ nào cũng vang lên tiến hò hét. Binh sĩ án chiếu theo diễn luyện trước khi xuất chinh mà nằm phục xuống. Nhưng mà, điều này không những chẳng hữu dụng, ngược lại còn bị chết nhiều người hơn sau những tiếng nổ.

    Cuối cùng cũng có người phát hiện là những vụ nổ phát sinh từ trên không! Tạc đạn nổ giữa không trung, bốn phía đều là mảnh kim loại nhỏ bay chụp xuống như mưa, cho nên nếu nằm mọp xuống như vậy càng làm tăng thêm diện tích cơ thể lộ ra, đương nhiên thương vong nhiều hơn nữa.

    Quân đội của Trương Hiến Trung được huấn luyện rất bài bản, nếu như địch quân cướp doanh trại, căn bản binh sĩ không kinh hoàng thất thố, mà nhanh chóng tổ chức phản kích. Chỉ có điều loại tạc đạn nổ giữa không trung này là lần đầu tiên họ gặp phải, cho nên đại quân rất loạn. Nhưng dù sao thì họ cũng đã thân kinh bách chiến, sau khi hoảng loạn lúc sơ kỳ, lập tức phát hiện pháo hỏa chỉ xuất phát từ một tòa núi nhỏ, nên lập tức xuất kích.

    Khi địch quân xung phong kéo tới cách ngọn đồi đó mấy trăm mét, thì tiếng "tạch tạch tạch..." của súng máy lại vang lên.

    Quân xông phía trước chết như ngã rạ, những binh sĩ đã từng tham gia trận đánh Kiềm Dương trước kia quá quen với âm thanh này, kinh khủng hét: 'Quái thú vũ khí! Mau nằm xuống!"

    Quân phía sau vội nằm bẹp, hoặc tìm đá, gỗ yểm hộ. Do chưa tiến vào tầm bắn của hỏa súng và cung tên, không cách gì tổ chức phản kích, chúng chỉ còn biết hô lên với đám phía sau: "Giáp luân xa! Mau! Mau đem giáp luân xa đẩy ra đay!"

    Những chiếc xe bọc thép có bánh đó được đẩy tới thì tiếng pháo và súng trên đồi đã dừng lại. Chờ mấy chục chiếc Giáp luân xa từ từ tiếp cận ngọn đồi, binh sĩ mang thuẫn bài sắt nặng xông lên thì quân đánh lén đã tiêu biến trong trời đêm.

    Đây đương nhiên là bọn Dương Thu Trì làm. Hỏa pháo dùng để phát sạ là Phất Lãng Cơ. Phất Lãng Cơ làm bằng đồng, thân pháo hơi ngắn, hơn nữa nòng súng họat động xong có thể tháo ra, phân thành hai nên chỉ cần mấy người là có thể vác đi, khá cơ động linh hoạt.

    Lần này đạn đá sử dụng đã được Dương Thu Trì lần nữa cải tiến. Hắn rút ngắn dây dẫn, khi đạn pháo của rơi xuống đất đã nổ. Và đạn thế chế ra được khắc rảnh giống như lựu đan, sau khi nổ sẽ biến thành những mảnh nhỏ. Hơn nữa khi nhồi thuốc nổ, hắn đã bỏ thêm vào đó những mảnh sắt vụn, một khi bị nổ ở trên không, hàng trăm mảnh thép bay tứ tung, có thể sát thương rất nhiều địch.

    Lần tập kích này chỉ bắn mười mấy viên đạn pháo, nhưng do sử dụng đạn cải tiến, quân địch tập trung đông đúc, nên thương vong đến gần nghìn tên.

    Quân đội của Lý Định Quốc cũng gặp phải những vụ đánh lén thế này.

    Sau khi đại quân của Tôn Khả Vọng tiến vào sơn cốc một thời thần (khoảng 2 giờ) thì mới gặp vụ nổ sụp núi. Lúc này quân của Lý Định Quốc đi đường vòng bao vây đã cách đó xa rồi, tuy có nghe tiếng ùng ùng văng vẳng, nhưng không biết đó là tiếng nổ, chỉ cho rằng là mé trời đó đổ mưa, sấm nổ ì ầm thế thôi, nên họ tiếp tục tiến lên, đến canh ba thì hạ trại ở một chỗ bằng phẳng.

    Ngủ đến nửa đêm, trên không của quân doanh có vô số tiếng nổ, binh sĩ tử thương rất nhiều, nhưng khi xuất kích tới địa điểm pháo bắng thì địch nhân đã không còn tung ảnh, kiểm lại thiệt hại mấy trăm quân.

    Loại đánh lén này thương vong tuy hơi nhỏ, nhưng có tác dụng lớn khi đánh vào sĩ khí đối phương, khiến địch quân suốt đêm không dám ngủ yên.

    Sau đó, Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc đều nghiên cứu chiến pháp đánh lén của địch quân, khi an doanh hạ trại đều bố trí nhiều trạm gác ở những chỗ có thể bố trí hỏa pháo.

    Nhưng mà, chuyện này vẫn gặp phải vấn đề, khi trạm canh ít thì bị địch quân ngầm đánh lén diệt hết, còn trạm canh nhiều người thì bản thân nó trở thành mục tiêu bắn pháo của địch từ xa. Điều chủ yếu chính là loại tập kích này đêm nào cũng có, tiếng nổ to vang lên khiến binh sĩ kinh khủng vô cùng, căn bản không cách gì nghỉ ngơi. Nhờ đó, chuyện vu hồi tập kích vốn chỉ cần dùng 5 ngày là hoàn thành, thế mà Lý Định Quốc phải mất mười mấy ngày mới hình thành thế hợp vây Kiềm Dương huyện.

    Trong vòng mười mấy ngày này, quân của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị Dương Thu Trì phái những tiểu đội quen thuộc địa hình mang Phất lãng cơ hỏa pháo đi tập kích đêm chết tổng cộng hết ba bốn nghìn người. Cộng thêm trận chiến ở Nham Lũng sơn mất gần bảy nghìn người, tổng cộng Trương tặc binh mất một vạn người, ngoài ra còn khoảng 1 vạn người bị thương ở nhiều mức độ khác nhau.

    Còn chưa chính thức khai chiến mà đã mất đi hơn một phần mười quân đội, khiến cho lòng tự tin của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

    Tôn Khả Vong thấy không có khả năng trong vòng thời gian ngắn đả thông dịch đạo, bèn quyết định tháo các giáp luân xa ra cho quân sĩ như đám kiến mang qua chỗ tắt đường sau đó ráp lại. Còn lương thảo cũng vậy, cho lừa ngựa theo đường nhỏ vượt qua.

    Sau một phen cực khổ như vậy, Tôn Khả Vong cuối cùng cũng đem vài vạn đại quân đến Kiềm Dương huyện sau mười mấy ngày.

    Trống trận đổ dài, tiếng quát giết vang trời, được mấy trăm chiếc Giáp luân xa yểm hộ, binh sĩ áp sát thành tường, nhưng không thấy có địch quân nào đề kháng, cho đến khi chúng bắt thang dây, đánh vào trong thành cũng vậy.

    Ba mặt khác, đại quân của Lý định Quốc cũng ùa vào, và thuận lợi phi thường, chẳng gặp phải sự đề kháng gì, chẳng khác nào như một trận diễn tập quân sự, bốn phía cùng phá thành tiến vào một lượt.

    Trên thành lâu là đại kỳ của Minh quân đóng gió bay phần phật, không thấy một binh một tốt nào.

    Bốn mặt thành mở ra, mấy vạn địch quân kéo vào nội thành, phát hiện Kiềm Dương huyện thành đã trở thành một tòa thành trống!

    Không những chúng không thấy được một lão bá tánh, ngay gà vịt chó mèo cũng không. Không có vật đáng tiền gì, đừng nói chi là chút lương thực.

    Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc nhìn nhau, không biết địch đi về phương nào, không có ai để hỏi, đều không biết ưng đối ra sao. Nghiên cứu cả nửa ngày, hai người quyết định cho đại quân vào thành trước, rồi phái người tìm tung tích địch quyết chiến sau.

    Trong thành có một binh doanh, xem ra là quân Đại Minh rút đi đã bỏ lại, phòng ốc dụng cụ đầy đủ, còn có kho lương, chỉ là không có chút lương thực nào. Tôn Khả Vọng cho mang lương thảo của đại quân vào chứa trong này.

    Sau nhiều ngày mệt mỏi, cuối cùng họ đã tiến vào thành an toàn, đóng kín cửa lại.

    Sau khi bố phòng trên thành lâu xong, đại quân cuối cùng có thể ngủ an ổn rồi.

    Chỉ có điều, Dương Thu Trì không để chúng ngủ yên, vì đây chính là chiến trường mà bọn hắn chọn.

    Canh tư, vào lúc người ta mệt mỏi nhất, hai bóng đen từ một căn phòng cũ nát xuất hiện ra, chính là vợ chồng Dương Thu Trì - Liễu Nhược Băng.

    Thì ra, hai người ẩn trong thành, do có vũ công cao cường, tránh được địch quân trùy tìm. Sau khi họ lộ diện, đã nhanh thoăn thoắt đến một chỗ ẩn mật ngoài binh doanh, đốt cháy mấy chục dây dẫn lửa, sau đó lui nhanh.

    Những dây dẫn lửa này nối liền với những ống trúc ống đồng chôn dưới đất, cháy dần vào binh doanh. Trong khi đó, hàng loạt binh sĩ ngủ vùi trong giấc mộng, ngay trên bãi địa lôi!

    "Oành oành oành...!"

    Tiếng nổ vang trời, kèm theo đó là máu thịt bầy nhầy của vô số binh sĩ bị xé nát thây trong giấc mộng.

    Đợt nổ này ngoại binh doanh ra, địa điểm tập trung chủ yếu là kho lương. Kho lương sau khi nổ, lượng thảo tồn trữ ở đó nhanh chóng bắt cháy ùng ùng. Thì ra Dương Thu Trì chộn địa lôi dưới kho lương kỳ thật là loại đạn cháy, không những bỏ đầy thuốc nổ, còn cho nhiều lưu huỳnh, trong khi đó lương thảo là vật dễ cháy!

    Binh sĩ vừa định cứu hỏa, thì nhà dân chung quanh cũng nhanh chóng bén lửa. Toàn bộ cổng thành và những phòng ốc gần đó đều chạy phừng phừng, thế lửa nhanh chóng dâng cao, toàn bộ Kiềm Dương huyện thành chẳng mấy chốc chìm trong biển lửa.

    Đây dĩ nhiên là kiệt tác của Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng. Họ mượn trời đêm và võ công cao siêu, chạy khắp nơi phóng hỏa. Nhà dân trong thành thực chất đã bị cho thêm lưu hoàng và những vật dễ cháy ở chỗ kín đáo rồi.

    Thế lửa xung quanh binh doanh lớn nhất. Lần này xuất chinh, địch quân chỉ mang theo ít thủy long đội, căn bản không ứng phó được thế lửa như vậy.

    Khi tiến thành địch quân có 7 vạn, binh doanh khá nhỏ nên không chứa hết, chúng đã phân tán ở vào nhà dân. Trong thành nổi lửa khắp nơi, binh sĩ khắp thành bị chìm trong biển lửa, nhiều tên bị thiêu sống.

    Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc kinh khủng vạn phần, ra lệnh triệt li. Nhưng binh sĩ phân tán khắp nơi, mệnh lệnh không cách gì truyền đạt kịp thời, 4 cửa thành đã bị lửa vây phủ nên Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc chỉ đành đốc thúc binh sĩ liều mạng chữa lửa, mở ra thông đạo đem một phần quân đội lui ra phía tây thành.

    Binh sĩ tập trung trên vùng bằng phẳng ngoài thành, nhìn huyện thành chìm trong lửa mà sợ đến tái xám mặt mày. Lý Định Quốc còn có thể coi là bình tĩnh, sợ địch quân mượn cơ hội này đánh lén, lập tức tổ chức chiếm lĩnh cao điểm xung quanh, đốt lửa cảnh giới, nhưng Minh quân không đến đánh.

    Trận lửa lớn này cháy đến trời sáng, sau khi kiểm tra lại, phát hiện có hơn ba vạn binh sĩ và hơn nghìn con chiến mã táng thân trong biển lửa, toàn bộ lương thảo bị thiêu rụi, mấy trăm chiếc Giáp luân xa, mấy chục hỏa pháo và toàn bộ đạn dược đều tiêu tan trong trận hỏa công này!
     
  19. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 139: Công Chiếm Bảo Khánh
    Trương tặc quân hiện giờ không còn vũ khí nặng, không có lương thảo, tướng sĩ tử vong hơn phân nửa, đại bộ phận binh sĩ đều bị phỏng với trình độ khác nhau, sĩ khí xuống thấp vô cùng.

    Không có lương thảo, coi như không có biện pháp đánh nhau. Hơn nữa, ngay địch ở chỗ nào chúng còn chưa biết thì làm sao mà đánh.

    Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc giản đơn thương lượng xong, và lần nay hiếm lắm mới có dịp hai người nhanh chóng thống nhất ý kiến như vậy: lập tức triệt quân.

    Bốn vạn tàn binh bại tướng vượt qua triền núi sụp đổ ở Nham Lũng sơn, lui về phía Bảo Khánh. Sau khi gấp hành quân hai đêm, dọc đường chúng không gặp địch, tướng sĩ đều mệt mỏi nhưng không dám ngừng nghỉ. Đến ngày thứ ba, khi chúng không còn chịu nổi nữa, chuẩn bị an doanh hạ trại, thì đối đầu ngay với ba vạn quân dĩ dật đãi lao của Dương Thu Trì!

    Thì ra, sau khi Dương Thu Trì thu được quân tình, biết địch nhiều ta ít, không thể liều chống, nên phân phát lương thực tổ chức cho bá tánh toàn thành trốn vào trong Tuyết Phong sơn gần đó. Còn ba vị vương gia và quan viên trọng yếu của nha môn thì trốn toàn bộ vào sơn trại của nhị đại vương Vũ Kỳ khi xưa. Tám nghìn quân đội và thiết bị chế tạo đạn dược, nguyên liệu cũng điều tiến vào núi.

    CÙng lúc đó, thám mã thông thạo đường lối được phái đi đã dùng bồ câu đưa thư thông báo tin tức địch quân. Ứng theo đó, mỗi đêm đều có một tiểu phân đội Phất Lãng Cơ xuất phát, tiến hành quấy nhiễu trọng điểm đối với quân của Lý Định Quốc.

    Dương Thu Trì cũng không chịu nhàn. Ngoại trừ tổ chức trận chiến Nham Lũng sơn, thời gian còn lại hắn đều nghiên cứu làm sao đẩy nhanh tốc độ chế tạo đạn dược.

    Và ông trời không phụ người có công, hắn dựa trên cơ sở của Vô Trần đạo trưởng, cuối cùng cải tiến thiết kế ra thiết bị có thể sản sinh một lượng lớn thuốc nổ đắng, giảm thiểu phần lớn các bước chế tạo, chuyển sang cho thiết bị cơ giới làm. Đương nhiên, những bộ phận kỹ thuật trọng yếu trong việc làm thuốc nổ và đạn được hắn tự tay độc lập hoàn thành. Công tác bảo mật này là cần thiết, vì mất nó, coi như hắn chẳng là gì cả trong thế giới này.

    Do thiết bị kỹ thuật có đột phá trọng đại, thuốc nổ đắng và thuốc súng không khói, kíp nổ có sản lượng gia tăng gấp năm lần, khiến cho lượng đạn trung bình sản xuất ra từ 500 phát lên 2500 phát, tạc đạn bằng đá từ 10 quả tăng lên 50 quả 1 ngày.

    Suốt hai chục ngày chế tạo cộng thêm lượng đạn dược chế ra hơn mười ngày trước, hắn đã tích lũy đạn dược kha khá. Trong đó thuốc nổ phần lớn đã dùng cho các cuộc tập kích, vụ nổ ở Kiềm Dương huyện thành. Đạn được sử dụng rất ít, nên trong hơn 1 tháng này, hắn đã chế tạo gần sáu bảy vạn phát tử đạn. Đủ trang bị cho 3 chiếc súng máy của Dương Thu Trì.

    Ngoài ra, hơn một nghìn cây súng lão sáo đồng đã được chế tạo, trang bị hết cho hơn nghìn kỵ binh tinh nhuệ.

    Trong thời gian này, ba vị vương gia cũng phái người phân biệt đến Tĩnh châu và Quý châu mượn binh. Quý châu gần Bình Khê vệ, Đồng Lăng ở Tương tây, có một lượng lớn Minh quân trú đóng. Quân đội này còn chưa dùng qua.

    A Hạnh Ny cũng đến Quý châu mượn binh của các miêu trại, thổ gia và thổ ti.

    Mặt mũi của ba vị vương gia quả là lớn, cộng thêm tài lực hùng hậu làm hậu thuẫn, họ đã mượn được hơn hai vạn binh. Dương Thu Trì đem số quân này mai phục ở chỗ từ Kiềm Dương về Bảo Khánh tất phải đi qua.

    Trong trọng lửa lớn ở Kiềm Dương, địch quân bị thiêu chết mấy vạn, lương thảo cháy sạch, địch quân bất đắc dĩ phải lui binh, chạy suốt ba ngày đêm thì gặp ba vạn quân của Dương Thu Trì.

    Đây là vùng đất trống trải, địch quân mệt mỏi không có lòng luyến chiến, đặc biệt là khi thấy binh lực đối phương tương đương, nên chỉ muốn đào tẩu. Nhưng đại quân Dương Thu Trì đã vào thế bạch hạc giang cánh, chính diện có súng máy của Dương Thu Trì, hai cánh đều phối 500 cây lão sáo đồng, căn bản không cho địch quân đào tẩu.

    Dương Thu Trì trước hết cho dùng hồng di đại pháo bắn đạn nổ trên không tiến hành oanh kích, địch quân tử thương vô số. Mấy chiếc thiết luân xa chuyên dùng để đối phó vũ khí quái thú đã hư cháy hết ở Kiềm Dương huyện thành, cho nên hiện giờ chỉ biết ráng cố sức xung phong.

    Nhưng súng máy maxim không cho phép thực hiện điều đó. Địch quân ngã như rạ, trong chiến đấu có không ít tên học cách lăn lê bò lếch tránh đạn, nhưng lại bị tạc đạn đá nổ ở trên không biến thành bia sống.

    Thấy không thể xung phá, địch quân chuẩn bị đột vây từ hai cánh, nhưng đón tiếp chúng là binh sĩ dùng lão sáo đồng có tầm bắn 2000 mét, hữu hiệu 600 mét, xa vượt qua cung tên hay điểu thương, tuy là bắn từng phát nhưng tới 500 quân bắn một lúc, hơn nữa lại có 5 phát đạn, nên nhanh chóng biến địch quân thành những xác chết không hồn.

    Thấy địch quân đã loạn, Dương Thu Trì không muốn hao phí đạn dược cực khổ chế ra vào chiến trường này, vung roi ngựa hạ lệnh bộ binh xung phong.

    Xông lên trước lạ hỏa súng binh, khi tới xạ trình thì bắn, địch quân ngã rạp, tiếp đó hai vạn tinh binh mượn từ Tỉnh châu và Quý châu làm công việc còn lại.

    Hơn nghìn kỵ binh mang súng của hắn đối phó với bộ binh như chỗ không người, bộ binh tiếp theo sau đánh quả nhiên là khiến binh bại như núi đổ, bốn vạn địch quân chớp mắt tan tành. Ba ngay hai đêm hành quân liên tục đã khiến địch mệt mỏi rã rời, không còn lực để chạy nữa. Cho nên, ngoại trừ thân binh và hộ vệ của Lý Định Quốc, Tôn Khả Vọng mở đường máu từ bên cánh chạy thoát vòng vây, hai vạn quân còn lại đều quỳ xuống đầu hàng toàn bộ.

    Trận này diệt hơn 1 vạn quân, giành toàn thắng.

    Dương Thu Trì nhận được quân tình là 8 vạn địch quân rời khỏi Bảo Khánh phủ xong, thủ quân trong thành chỉ còn vài nghìn, nên lập tức quyết định thừa thắng truy kích, binh phát Bảo Khánh phủ. Mấy ngày sau, binh đến dưới thành.

    Lúc này đại quân của Dương Thu Trì nhờ có hai vạn địch quân đầu hàng thu nhận vào, số lượng đã đạt đến 5 vạn.

    Thủ quân của Bảo Khánh phủ ngoan cường đề kháng, quyết không đầu hàng. Dương Thu Trì quyết định phát động cường công, dùng hỏa pháo oanh kích tường thành.

    Tường thành thời cổ đại đối phó với binh khí lạnh hay thật tâm pháo đạn còn được, chứ trước mặt pháo đạn bằng thuốc nổ đắng của Dương Thu Trì, nó yếu ớt như là đất bùn vậy, chẳng mấy chốc đã bị bắn vỡ ra mấy cái lổ hổng lớn.

    Do Dương Thu Trì thực hiện chính sách ưu đãi tù binh, hai vạn quân Trương Hiến Trung đầu hàng cảm kích trong lòng, lại có lòng kính sợ đối với vũ khí quái vật của hắn, nhận thấy theo hắn mới có tiền đồ, nên thật tâm đầu hàng và quyết tâm lập công trong trận này. Chúng xông lên trước, tiến vào thành trước, diệt phần lớn thủ quân trong thành.

    Trước chuyện này, Dương Thu Trì đã tuyên bố chính sách sau khi phá thành, nghiêm chỉnh chấp hành ba đại kỷ luật tám hạng chú ý, nên sau khi tiến vào trong, không những không quấy nhiễu dân chúng, còn lập tức mở kho phát lương, chẩn tế bá tánh cùng khổ, được dân chúng toàn thành Bảo Khánh ủng hộ và hoan nghênh.

    Ba vị vương gia hôm sau cũng di chuyển đến Bảo Khánh, đối với Dương Thu Trì càng bội phục sát đất, đặc biệt là Quế vương vô cùng vui mừng vì bước đi chính xác trước đây của mình.

    Thời gian đã trải qua một tháng kể từ khi ba vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý tiến cử Dương Thu Trì kế thừa tước vị Sở vương, nhung chưa có tin tức phản hồi gì. Hiện tại cần phải hiện thực hóa điều này, nếu không lòng họ như treo trên sợi tóc giữa vực sâu. Họ lập tức dùng bát bách lý gia cấp khởi tấu chương, đem đại tiệp ở Kiềm Dương báo lên triều đình, đồng thời lần nữa tiến cử hắn vào tước vị Sở vương, yêu cầu triều đình chính thức giao cấp binh quyền cho Dương Thu Trì.

    Bảo Khánh là phủ, thành trì to hơn Kiềm Dương nhiều. Đại quân Trương Hiến Trung tích trữ rất nhiều quân lương ở đây. Dương Thu Trì hiện giờ muốn nhanh chóng khoách đại đội ngũ của mình, nên lập tức dựng cờ chiêu binh, tăng thêm quân đội.

    Kiềm Dương huyện đã bị cháy rụi, Dương Thu Trì thuyết phục ba vị vương gia đem một lượng tài sản lớn cho bá tánh tu sửa lại nhà cửa. Đây là điều trước giờ chưa có, làm gì có chiến tranh thiêu hủy rồi lấy tiền bồi thường, cho nên cử động này của hắn được truyền tụng khắp nơi, cả vùng Tương Tây ai ai cũng biết, thanh niên trai tráng đến đầu quân rất độc, thậm chí có không ít Minh quân bị tán lạc khắp nơi kéo về, nên trong vòng nửa tháng đã chiêu mô 5 vạn tân quân.

    Dương Thu Trì vốn muốn dùng xong hai vạn quân mượn rồi trả lại, nhưng mấy tướng lĩnh dẫn đầu đều sống chết không chịu đi, quỳ xuống thề muốn lĩnh quân theo Dương Thu Trì. Và thế là, binh lực của hắn coi như đã đạt 10 vạn.

    Bảo Khánh phủ lớn hơn Kiềm Dương nhiều, có mấy chục vạn nhân khẩu, thợ sắt rành nghề hơn nghìn người, Dương Thu Trì lập tức triệu tập mọi công tượng trong thành tham gia chế tạo vũ khí. Có tiền có người, cộng thêm có dân ủng hộ, làm việc gì cũng nhanh, cho nên quặng mỏ cần chế tạo đạn dược không ngừng được chuyển tới Bảo Khánh.

    Dương Thu Trì dùng 1 tháng để chế tạo hơn chục vạn phát đạn và hơn nghìn quả pháo đạn. Dưới nỗ lực của hơn nghìn thiết tượng, hắn lại chế thêm được 1000 lão sáo đồng, cộng với số cũ được 2 nghìn cây súng.

    Quân tinh nhuệ là đội ngũ có lực chiến đấu cao nhất, do đó tố chất cũng phải cao. Hắn điều chỉnh lại quân của mình, căn cứ lượng đạn và số lượng lão sáo đồng, biến quân tinh nhuệ thành đội ngũ 1 nghìn 600 người, tổ thành hai kỵ binh đoàn, chọn từ trong 10 vạn đại quân này những kẻ giỏi về thuật cưỡi ngựa, sau đó cho thi bắn súng toại phát trong khi cưỡi ngựa tiến hành chánh thẩm. Ngoại trừ những người có nguồn gốc rõ ràng, hắn cho tra rõ lý lịch, loại hết những kẻ có lại lịch mờ ám, đảm bảo địch quân không trà trộn vào.

    Kỵ binh đoàn có hai thiên tổng (đoàn trưởng) do Dương Thu Trì tự tuyển, đó là Nhị đại vương Vũ Kỳ và một binh sĩ Đồng tộc giỏi bắn giỏi cưỡi ngựa trong Đồng tộc tên là Đô Cường. Đây là một bách phu trưởng của A Hạnh Ny, đã từng tham gia trận chiến bảo vệ Kiềm Dương, có tài chỉ huy, tác chiến dũng mãnh, cơ trí ngoan cường. Hai người này đều trung thành với Dương Thu Trì.

    Vấn đề chiến mã cũng giải quyết dễ dàng, vì sau khi chiếm Bảo Khánh, quân hắn đã tước đoạt được một lượng lớn chiến mã. Cộng thêm hắn cho người đi mua ngựa khắp nơi, cho nên số lượng đủ dùng cho kỵ binh.

    Khi xây dựng lại kỵ binh tinh nhuệ này, Dương Thu Trì căn cứ suy nghĩ của mình tổ chức huấn luyện, chú trọng tính kỹ luật, răm rắp tuân theo chỉ huy.

    Một tháng sau, được Quế vương cực lực chủ trương, Dương Thu Trì thấy tình huống chuẩn bị đã cơ bản có thành tựu, liền quyết định mang binh tấn công sào huyệt cũ của Quế vương là Hành châu.

    Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc đột phá khỏi trận chiến Kiềm Dương cuối cùng cũng tìm về tổ chức. Ba nhiệm vụ Trương Hiến Trung giao không những không hoàn thành, mà vạn đại quân còn bị Dương Thu Trì làm sập núi, đánh đêm, hỏa thiêu và tiêu diệt hết sạch, khiến y tức suýt ói máu ngay tại trận.

    Trương Hiến Trung nghe Dương Thu Trì phát binh Hành châu, liền hạ lệnh Lưu Văn Tú tử thủ Hành châu, cấp tốc điều đại quân đánh vào Giang Tây trở về, điều động quân đội các nơi tập trung mọi binh lực lên đến 20 vạn kéo đến Hành châu chuẩn bị hội chiến, quyết định diệt gọn quân đội của Dương Thu Trì.

    Lưu Văn Tú có 8 vạn quân ở Hành châu, là một trong 4 nghĩa tử của Trương Hiến Trung, được phong làm Phủ nam tướng quân, là ái tướng tâm phúc của y. Hành châu là yếu đạo giao thông liên thông nam bắc Hồ Quảng, xuống nam là Quảng Tây, về đông là Giang Tây. Đây là trọng trấn chiến lược và yết hầu, do đó Trương Hiến Trung mới chỉ phái Lưu Văn Tú cầm trọng binh trú thủ nơi này.

    Thành tường Hành châu xây dựng vô cùng kiên cố, tinh binh đông lương đủ, nhất định khó phá vô cùng.
     
  20. Băng Băng

    Băng Băng Super Member
    • 1128/1243

    • Tầm Nhân Thoát Tục
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    9,567
    Đã được thích:
    56,008
    Chương 140: Hội Chiến Hắc Thuỷ Hà
    Dương Thu Trì không phát động cường công. Hắn không muốn dùng quân đội cực khổ lắm mới xây dựng nên đánh tiêu hao chiến. Hắn muốn tận dùng ưu thế về vũ khí tiêu diệt địch quân. Hắn muốn quán triệt tư tưởng vận động chiến theo kiểu của Mao Trạch Đông, không quan tâm đến được mất một vùng, mà đặt trọng tâm vào tiêu diệt sinh lực địch quân.

    Dương Thu Trì sau khi chiếm Bảo Khánh được dân chúng ủng hộ, liền tổ chức mạng lứơi tình báo hữu hiệu, nắm vững động thái của địch quân. Hắn biết địch quân chia hai đường, phía bắc xuất phát từ Trường Sa do Trương Hiến Trung tự soái lĩnh, phía tây do là quân đánh chiếm Giang tây Viên châu, do Ngải Năng Kỳ soái lĩnh.

    Trong đó, đại quân của Ngải Năng Kỳ tiến binh thần tốc, đã tiến vào địa giới Hồ Quảng, còn quân Trương Hiến Trung vẫn còn đang điều động, chưa xuất phát từ Trường Sa.

    Ngải Năng Kỳ tham công mạo tiến, muốn cùng Lưu Văn Tú ở Hành châu hình thành thế giáp kích nam bắc. Dương Thu Trì nắm được điểm này, tuy nói là hắn có tạc đạn, súng máy và lão sáo đồng, nhưng mãnh hổ khó địch quần lang, hơn nữa phía bắc Hành châu là đồi núi có phong cảnh tú lệ, tác chiến ở vùng núi này hỏa pháp và súng của hắn sẽ bị giảm uy lực, cần phải tận khả năng tránh sở đoản tận dụng sở trường. Nhưng nếu bố trận nghênh địch ở phía bắc Hành châu, tất phải bị thế giáp kích nam bắc của địch. Hai lộ địch quân cộng lại có quân số hai chục vạn, gần như la gấp đôi quân của hắn, không thể mạo hiểm quyết chiến trong tình huống này. Nhưng nếu vượt qua Hành sơn, nghênh địch ở bình nguyên Chu châu, thì đại quân quá mệt mỏi, không thể nào ở trạng thái tốt nhất đánh địch. Hơn nữa cô quân thâm nhập, khuyết thiếu hậu viện, một khi thất lợi thì hậu quả không thể tưởng tượng.

    Sở dĩ, Dương Thu Trì ngẫm nghĩ thật lâu, cuối cùng quyết định giả triệt binh về Bảo Khánh, bố trận ở một lòng chảo ven Hắc Thủy hà nghênh địch. Như vậy, một mặt hắn có thể tránh thế lưng mặt đều thụ địch, mặt khác cự li cách Bảo Khánh không xa, tiến có thể công, lùi có thể thủ.

    Lưu Văn Tú ở Hành châu phủ thấy Dương Thu Trì lui binh, không dám truy kích, sợ nhằm vào kế dụ địch. Ngải Năng Kỳ nhận được tin, liền chuyển phương hướng nhắm thẳng đại quân của Dương Thu Trì ở Hắc Thủy hà. Đồng thời y yêu cầu Lưu Văn Tú xuất binh, hai lộ giáp kích, bị Lưu Văn Tú cự tuyệt. Lưu Vấn Tú kiên trì án chiếu chỉ ý của Trương Hiến Trung cố thủ thành trì, chờ đại quân của Trương Hiến Trung đến, sau đó ba lộ hội sư Bảo Khánh, tập trung ưu thế binh lực một đoàn tiêu diệt tân quân của Dương Thu Trì.

    Lần trước đại quân Trương Hiến Trung nam hạ, Ngải Năng Kỳ làm tiên phong, phụng mệnh tiếng công Giang Tây, dọc đường qua ải chém tướng, đánh quân của Tả Lương Ngọc đại bại, liên chiếm Bình Hương, Vạn Tái, đoạt Viên châu ngay cửa Giang Tây. Tiếp đó, y công chiếm Cát An, Cát Thủy, Vĩnh Tân, An Phúc, Thái Hòa và các huyện khác, báo tin thắng trận liên miên, quả là có cảm giác hoành tảo thiên quân.

    Tiếp đó Trường Hiến Trung phát lệnh khẩn cấp chi viện Hành châu ở Hồ Quảng. Ngải Năng Kỳ lập tức hồi sư Hồ Quảng, khí thế hung hung kéo thẳng tới Hành châu. Sau khi biết được Dương Thu Trì triệt binh, cho rằng hắn sợ uy danh của y, càng ngông nghênh hơn. Tuy Lưu Văn Tú ở Hành châu không chịu xuất binh giáp kích, đại quân của Trương Hiến Trung ở Trường sa chưa xuất phát, y đã gấp rút không thể đợi chờ, muốn đánh bại Dương Thu Trì đoạt lại Bảo Khánh phủ, do đó mới soái lĩnh đại quân sát khí đằng đằng kéo tới.

    Đương nhiên, Ngải Năng Kỳ không hề là người hữu dũng vô mưu đơn giản. Y đã biết đại quân Dương Thu Trì có một loại vũ khí quái thú có thể chớp mắt lấy mạng mấy trăm người, hơn nữa tầm bắn còn tương đương hỏa pháo. Ngoài ra hắn còn có tạc đạn uy lực kinh người, có thể sát thương ngoài trăm xích, có thể nổ vỡ thành trì kiên cố. Hiện giờ lại còn truyền tin là binh sĩ của hắn được phối bị một loại hỏa súng mới, xạ trình hữu hiệu gấp bảy tám lần hỏa súng thường, có thể liên tục bắn, không cần lấp đạn vào họng súng rồi mới bắn tiếp.

    Những vũ khí này đều khủng bố chưa hề nghe thấy bao giờ. Nhưng mà người đều có đặc tính là chưa trực tiếp gặp sự vụ đó thì dù sao cũng không thể hình dung nó khủng bố thế nào. Do đó, Ngải Năng Kỳ không lo lắng nhiều, tuy vẫn chuẩn bị những bước cần thiết, ví dụ tập luyện đội hình chiến đấu và điều chỉnh phương án tác chiến.

    Hai quân cuối cùng gặp nhau bên bờ Hắc Thủy hà, binh lực tương đương, đều khoảng 10 vạn.

    Đây là một lòng chảo bên sông khá rộng, rất bằng phẳng, từ xa có thể thấy đại quân của Ngải Năng Kỳ di động đen xì xì, che lắp cả bình nguyên.

    Ngay bộ chỉ huy của Dương Thu Trì đã dựng lên một cây cờ lớn cao mười mét, trên có một vọng đài. Đoạn thời gian này hắn ngoại trừ nghiên chế phương pháp tăng tốc độ chế tạo đạn dược, còn tranh thủ học võ công từ chỗ Liễu Nhược Băng, đặc biệt là luyện tập phi tác bay lên phòng, đạt được vài phần hỏa hầu, khi lên xuống cột cờ này chẳng còn là vấn đề gì khó. Lúc này hắn đã bay lên trên đó, rút một ống đồng ra nhìn vào, không ngờ là một viễn vọng kính bằng đồng, dùng loại kính thủy tinh thượng đẳng ở Bảo Khánh mài giữa tạo thành. Hắn dùng kính viễn vọng quan sát tình huống bày binh của địch, phát hiện địch quân tiến đến trận địa của quân nhà chừng 5 nghìn mét thì dừng lại. Đại quân của địch bày thế trận trường xà, giữa binh sĩ có cự li nhất định, xếp hàng dọc, hiển nhiên là đề phòng đạn khai hoa bắn từ hồng di đại pháo của hắn.

    Phía địch quân cũng có một hàng hồng di đại pháo, số lượng đại khái hơn trăm khẩu.

    Phía sau đại pháo là thuẫn bài hỏa súng binh, dùng thuẫn bài vừa làm giá đỡ để bắn, vừa có tác dụng phòng hộ. Thuẫn bài sáng lấp lánh, rõ ràng là có kèm phiến sắt.

    Phía sau thuẫn bài hỏa súng binh là những phòng nhỏ di động làm bằng phiến sắt, số lượng có tới mấy trăm, xem ra ắt là xe tăng thổ tả "thiết luân xa". Sau đó nữa là trận địa trường mâu có số lượng đông nhất. Hai cánh của trận địa có kỵ binh cằm cường nỏ và mã đao, phía trước là giáp nhẹ, phía sau là giáp nặng.

    Địch quân có khoảng 10 vạn, đội hình chỉnh tề, cờ bay phấp phới, không ai nói loạn, hiển nhiên quân kỷ nghiêm minh, chẳng trách có thể càn quét quân Đại Minh.

    Quân đội hai bên đều sắp bày ở ngoài tầm bắn của Hồng Di đại pháo, hiển nhiên là chờ đối phương tiến công trước, sau đó tiến hành phản kích. Loại chiến pháp này rất hay dùng ở thời cổ đại.

    Dương Thu Trì không muốn chờ. Chiến pháp của hắn trộn lẫn hiện đại và cổ đại, hiện đại là chủ, cổ đại là phụ, do đó quyết định đánh trước kềm chế người. Hắn cầm cây cờ tam giác chỉ huy phất lênh, truyền lệnh binh phía dưới lập tức phát xuất chỉ lệnh, mấy chục trống trận nổi lên dồn dập, chấn thiên động địa: kỵ binh xuất kích!

    Kỵ binh của Dương Thu Trì có 1600 người, toàn bộ trang bị súng Lão sáo động lên đạn bằng tay, hộc đạn 5 viên, bắn xa nhất 2000 mét, tầm bắn hiệu quả 600 mét.

    Hai đội kỵ binh chia ra xông thẳng tới theo hàng ngang, khi tiến nhập tầm bắn của Hồng di đại pháo, địch quân bắn ngay một loạt, khói bay mù mịt, toàn là khai hoa đạn và thật tâm đạn có uy lực rất nhỏ, chỉ có thể sát thương những mục tiêu gần. Đối với chiến mã chạy với tốc độ nhanh, sự thương hại này có thể bỏ qua, hơn nữa kỵ binh này tiến theo hàng ngang, khoảng cách rất xa, giỏi cưỡi ngựa, nên với thật tâm đạn bắn tới có thể điều khiển ngựa tránh né. Cho nên, một loạt hơn 100 phát đạn này chẳng tạo ra thương vong bao nhiêu cho kỵ binh xung phong.

    Sau khi họ tiến vào tầm bắn 600 mét của súng lão sáo đồng, bắt đầu xạ kích, mục tiêu chủ yếu là pháo thủ của hồng di đại pháo, sau một loạt tiếng nổ, số pháo thủ này đua nhau ngã gục.

    Trong vòng 600 mét tuy đã là tầm bắn hữu hiệu của lão sáo đồng, nhưng là quá xa đối với quân chỉ có toại phát thương và cường nỗ của Ngải Năng Kỳ. Tầm bắn của chúng xa lắm chỉ 150 mét, hữu hiệu chỉ 50 mét, lại không chính xác, ứng với câu "hỏa súng bắn thỏ cũng không trúng".

    Hồng di đại pháo và Phất lãng cơ của chúng có thể dễ dàng bắn tới tầm 600 mét, nhưng để tiêu trừ phản lực cực mạnh, hỏa pháo đều được cố định ở góc 45 độ, rất khó có thể điều động chúi miệng pháo xuống.

    Trong khi đó, kỵ binh của đối phương chỉ nằm ngoài tầm bắn của bộ binh, trong tầm bắn gần nhất của hỏa pháo, nên chúng không thể nào phản kích.

    Địch quân không biết lão sáo đồng của Dương Thu Trì có thể bắn xa vậy, đều cả kinh. Chờ đến khi chiến hữu đua nhau ngã rạp, cuối cùng cũng phản ứng, thuẫn bài hỏa súng binh ở sau mang thuẫn bài bằng sắt nặng lên xông tới, toan tính ngăn đạn địch.

    Nhưng chúng đang đối diện với đạn cao tốc bắn từ thuốc nổ không khói, trong cự li ngắn như vậy có thể dễ dàng bắn xuyên qua bản sắt dày 5 mm, không thể dày hơn thêm, vì như vậy phiến sắt chỉ cao nửa người sẽ vô cùng nặng, một người khênh không nỗi, đừng nói chi di động về trước. Chúng chỉ mang thuẫn có dát sắt mỏng tới trước, kết quả bị đạn xuyên qua thuẫn cắm vào người dễ dàng.

    Tuy vô số binh sĩ bị ngã chết dưới súng lão sáo đồng, nhưng quân của Ngải Năng Kỳ không hề loạn. Trường cảnh khủng bố này họ đã nghe qua, nên nhanh chóng phát hiện thuẫn bài một mặt không đủ đối kháng đạn của địch quân, lập tức dùng thuẫn bài hai mặt tiến lên.

    Cùng lúc này, kỵ binh của địch quân ở hai cánh bắt đầu xung phong, chuẩn bị án chiếu theo chiến thuật thường dùng vòng ra sau lưng bao vây. Không ngờ, bọn chúng vẫn còn đánh giá quá thấp uy lực bắn xa và liên tục của lão sáo đồng. Tuy súng này chỉ có băng đạn 5 viên, nhưng để lắp đầy băng đạn 5 viên trở lại chỉ cần không đến nửa phút!

    Kết quả là, kỵ binh của địch dưới hàng nghìn cây lão sáo đồng bắn dồn dập, đã trở thành bia sống người ngã ngựa đổ, giãy chết liên tục, máu đỏ nhuộm hồng cả cỏ xanh.

    Ngải Năng Kỳ vội ra lệnh kỵ binh đình chỉ tiến công, chỉ huy quân xe tăng thổ tả "Thiết xa" sau thuẫn bài binh xuất kích.

    Ngải Năng Kỳ đã cải tiến giáp luân xa để trở thành thứ xứng với tên gọi "thiết xa" rồi - 4 phía đều là bản sắt nặng và đất bùn dày, phía trước có một cái lổ có thể bắn hỏa súng đặc chế cực lớn, là loại hỏa pháo thu nhỏ, tầm bắn khoảng 300 mét. Chỉ có điều, do miệng súng lớn, nhồi lắp thuốc súng cần nhiều thời gian, trong khi phải thực hiện bên trong cái nhà sắt nhỏ hẹp này rất mất công sức, cho nên gần 5 phút mới bắn được một lần. Các mặt xung quanh thiết xa này có dùi những lổ nhỏ hơn, dùng để bắn hỏa súng và cường nỗ.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này